Dẫn nhập: Tin là gì? Đã là người sinh ra trong thế giới này đều phải tin. Sống là tin vào con người vì không ai tự mình có thể biết hết mọi sự. Đối với mọi người, tin là chấp nhận đúng sự thật một quả quyết của người khác. Đối với chúng ta, những người công giáo tin là chấp nhận đúng sự thật những gì Thiên Chúa nói, được Chúa Giêsu mạc khải, được Hội Thánh rao giảng[1].
Đức tin là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống người Kitô hữu.
Bởi vậy cần phải tìm hiểu, đào sâu, củng cố cho niềm tin của mình để không bị chao đảo khi đứng trước những trào lưu tư tưởng mới cũng như khi gặp sóng gió thử thách trong cuộc đời. Giáo Hội đã dành riêng năm nay là Năm Đức Tin để giúp chúng ta là những người Kitô hữu tái khám phá lại niềm tin của mình đồng thời sống và loan truyền niềm tin ấy.
1. Giáo huấn của Hội Thánh.
Theo Sách Giáo Lý của Hội Thánh công Giáo (GLHTCG): “Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban”[2]. Công đồng Vaticano II đã khẳng định: “Đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, con người phải bày tỏ bằng “sự vâng phục bằng đức tin”[3], qua đó con người tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa bằng việc “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mặc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”[4], và tự nguyện ưng thuận mặc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý”[5].
2. Diễn giải
2.1. Đức Tin là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban
Đức tin không phải là sản phẩm của tự nhiên hay của trí tuệ, chúng ta nhận được đức tin là do hồng ân của Thiên Chúa. Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta và cho chúng ta biết chân lý. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải điều đó được Thánh Matthêu ghi lại: “Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta, và không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho” (Mt 11, 27), và trong Tin Mừng Thánh Gioan “Không ai có thể đến với ta nếu Cha Ta không lôi kéo người ấy” (Ga 6, 44). Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1, 9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha”[6]. Như thế, Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài cho con người và đứng trước mạc khải của Thiên Chúa, con người đáp lại bằng sự vâng phục đức tin[7], nghĩa là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa, đón nhận chân lý của Ngài, đồng thời để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc đời của ta. Nếu Thiên Chúa không tỏ mình ra cho chúng ta, thì nổ lực tìm kiếm của chúng ta sẽ ra vô ích. Vậy Thiên Chúa ban ơn đức tin cho con người để làm gì ? Thiên Chúa ban ơn đức tin cho con người bởi vì “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Đức Giáo Hoàng Benêdictô trong Tông huấn Porta Fidei viết: “Tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ” (PF 3).
2.2. Đức tin là một hành vi nhân linh
Chúng ta chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, đức tin cũng là hành vi đích thực của con người, một hành vi nhân linh[8]. Tin chính là lời đáp trả của con người đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng thúc đẩy và nhờ sự tự nguyện đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, con người chấp nhận những chân lý mạc khải, tin vào Thiên Chúa, tin vào đường lối của Người, bước đi dưới ánh sáng của Người, con người được Thiên Chúa ban ơn cứu độ và được sống đời đời. Đó là cùng đích của đức tin chúng ta.
Vì đức tin là hành vi nhân linh nên đức tin là một hành vi tự do[9], con người có thể đón nhận hay từ chối ơn đức tin. Như một đứa trẻ đã rửa tội từ nhỏ nhưng lớn lên vẫn có thể chọn lựa cách tự do. “Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý; con người phải theo lương tâm đáp lại lời mời gọi ấy, nhưng không bị ép buộc… Điều này chúng ta thấy rõ ràng nơi Đức Kitô”[10]. Ngài mời gọi người ta tin nhưng không ép buộc ai[11].
2.3. Những điều kiện để tin
- Mở tâm hồn và trí lòng ra đón nhận Lời Chúa.
- Tâm linh hướng về điều thiện. Tin là hành động của toàn con người với lý trí, ý chí và tình cảm. Cần phải có lòng ước muốn. Đôi khi phải chấp nhận những hy sinh, phải can đảm khước từ lối sống theo xác thịt, phải nổ lực, cố gắng và kiên trì[12].
- Cần có ơn Chúa giúp. Kín múc ơn Chúa nhờ đời sống cầu nguyện và việc lãnh nhận các bí tích.
2.4. Những cách sống nào lỗi nhân Đức tin và dẫn đến mất đức tin?
- Lười biếng không chịu học hỏi giáo lý và các chân lý mạc khải chứa đựng trong Kinh Thánh và trong giáo huấn của Hội Thánh.
- Nghi ngờ các chân lý mạc khải mà trở thành rối đạo, bỏ đạo hoặc ly khai khỏi Hội Thánh. Chối đạo cách công khai và cố tình tức là chối bỏ đức tin nghĩa là không dám nhận mình là người Kitô hữu. Chối bỏ đức tin là khước từ ơn cứu độ đã nhận được từ Thiên Chúa. Tội này hủy diệt toàn bộ đời sống siêu nhiên. Khi phải chính thức tuyên xưng đức tin mà cố tình im lặng thì cũng như là phủ nhận. Ngày xưa khi sai các tông đồ đi rao giảng, bước đầu Chúa Giêsu đã căn dặn “Khi người ta bắt bớ anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác” (Mt 10, 23). Nhưng đến khi cần thiết, các tông đồ đã theo gương Thầy Chí Thánh chấp nhận chịu chết để hoàn thành sứ mạng, minh chứng cho đức tin. Giáo Hội Việt Nam chúng ta mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam trong tháng 11, các thánh đã anh dũng tuyên xưng đức tin cho dầu có bị hành hình đau khổ, bị giết chết vẫn không chối bỏ đức tin.
- Sống bê tha, vô luân, rượu chè say sưa.
- Không sống đạo, bỏ kinh nguyện hàng ngày, bỏ các phép bí tích như là bỏ xưng tội lâu năm, không chịu lễ.
- Mê tín, coi thầy, bói toán, xem ngày, xem giờ, lên đồng bóng cầu cơ. Liều mình vào những dịp nguy hiểm có thể làm mất đức tin.
3. Áp dụng: Bổn phận đối với đức tin
- Hãy có tâm tình tạ ơn Chúa vì Người đã ban ơn đức tin cho chúng ta.
- Bảo vệ đức tin: Tin và giữ đức tin không phải dễ, nhất là trong bối cảnh hôm nay dễ làm con người xao động, hoài nghi, hoang mang, khủng hoảng. Vì thế cần bình tĩnh, cầu nguyện để được ánh sáng Chúa soi dẫn và đứng vững. Tránh những ảnh hưởng có thể làm lung lay hoặc dẫn đến mất đức tin. Giáo Hội khuyến cáo không nên đọc những sách nguy hại cho đức tin. Tìm đọc những sách đạo đức, những hướng dẫn của Hội Thánh về giáo lý, Thánh Kinh. Đồng thời bênh vực đức tin không mặc cảm khi bị chế diễu.
- Nuôi dưỡng đức tin: Giống như một chậu lan, nếu không chăm sóc, tưới nước, bón phân cây sẽ không ra hoa được, hoặc sẽ cằn cỗi và chết. Hay như một ngọn đèn dầu cần phải châm dầu nếu không có dầu đèn sẽ tắt. Vì vậy cần nuôi dưỡng đức tin bằng việc học hỏi giáo lý; đọc, học hỏi và suy niệm với Thánh Kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích.
- Làm chứng cho đức tin: Chúng ta có thể làm chứng bằng nhiều cách: Bằng lời nói, bằng hành động, bằng chứng nhân. Một ví dụ nhỏ, có nhiều nguời công giáo ra ngoài quán ăn không dám làm dấu thánh giá. Điều này không có nghĩa là chối đạo hay mất đức tin nhưng cho thấy đức tin còn non yếu chưa trưởng thành. Có nhiều cầu thủ bóng đá quốc tế ra sân vẫn làm dấu thánh giá. Nhiều vận động viên quốc tế trước khi thi đấu cũng không ngần ngại làm dấu thánh giá.
- Loan truyền đức tin: Nêu gương sáng đời sống đạo đức, cầu nguyện cho người chưa có hoặc đã mất đức tin. Tham gia vào các hội đoàn của giáo xứ, đời sống đạo, những sinh hoạt của giáo xứ, đặc biệt là tham gia vào công cuộc truyền giáo. “Các con là ánh sáng của thế gian…người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng” (Mt 5, 14-17).
4. Ghi nhớ
1. H. Đức tin là gì ?
T. Đức tin là nhân đức siêu nhiên, là hồng ân Thiên Chúa ban giúp ta vững lòng tin tưởng phó thác vào Chúa mà chấp nhận những điều Chúa dạy và nhờ Hội Thánh truyền lại cho ta.
2. H. Con người đáp lại Lời Thiên Chúa như thế nào?
T. Con người đáp lại mạc khải Thiên Chúa bằng sự vâng phục đức tin.
3. H. Vâng phục đức tin là gì ?
T. Vâng phục đức tin là tin tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa và đón nhận chân lý của Ngài đồng thời để Ngài làm chủ và hướng dẫn đời ta.
4. H. Đức tin có những đặc điểm chính yếu nào?(GLHT câu 28)
T. Đức tin vừa là ơn Thiên Chúa ban, vừa là sự đáp trả có ý thức và tự do của con người.
5. H. Có những tội nào phạm đến đức tin?
T. Có những tội này:
- Một là thờ ơ không chịu tìm hiểu các chân lý mạc khải
- Hai là cố ý nghi ngờ, hoặc chối bỏ các chân lý ấy, mà trở thành rối đạo, bỏ đạo, hoặc ly khai khỏi Hội Thánh.
Đức tin là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống người Kitô hữu.
Bởi vậy cần phải tìm hiểu, đào sâu, củng cố cho niềm tin của mình để không bị chao đảo khi đứng trước những trào lưu tư tưởng mới cũng như khi gặp sóng gió thử thách trong cuộc đời. Giáo Hội đã dành riêng năm nay là Năm Đức Tin để giúp chúng ta là những người Kitô hữu tái khám phá lại niềm tin của mình đồng thời sống và loan truyền niềm tin ấy.
1. Giáo huấn của Hội Thánh.
Theo Sách Giáo Lý của Hội Thánh công Giáo (GLHTCG): “Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban”[2]. Công đồng Vaticano II đã khẳng định: “Đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, con người phải bày tỏ bằng “sự vâng phục bằng đức tin”[3], qua đó con người tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa bằng việc “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mặc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”[4], và tự nguyện ưng thuận mặc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý”[5].
2. Diễn giải
2.1. Đức Tin là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban
Đức tin không phải là sản phẩm của tự nhiên hay của trí tuệ, chúng ta nhận được đức tin là do hồng ân của Thiên Chúa. Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta và cho chúng ta biết chân lý. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải điều đó được Thánh Matthêu ghi lại: “Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta, và không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho” (Mt 11, 27), và trong Tin Mừng Thánh Gioan “Không ai có thể đến với ta nếu Cha Ta không lôi kéo người ấy” (Ga 6, 44). Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1, 9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha”[6]. Như thế, Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài cho con người và đứng trước mạc khải của Thiên Chúa, con người đáp lại bằng sự vâng phục đức tin[7], nghĩa là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa, đón nhận chân lý của Ngài, đồng thời để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc đời của ta. Nếu Thiên Chúa không tỏ mình ra cho chúng ta, thì nổ lực tìm kiếm của chúng ta sẽ ra vô ích. Vậy Thiên Chúa ban ơn đức tin cho con người để làm gì ? Thiên Chúa ban ơn đức tin cho con người bởi vì “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Đức Giáo Hoàng Benêdictô trong Tông huấn Porta Fidei viết: “Tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ” (PF 3).
2.2. Đức tin là một hành vi nhân linh
Chúng ta chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, đức tin cũng là hành vi đích thực của con người, một hành vi nhân linh[8]. Tin chính là lời đáp trả của con người đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng thúc đẩy và nhờ sự tự nguyện đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, con người chấp nhận những chân lý mạc khải, tin vào Thiên Chúa, tin vào đường lối của Người, bước đi dưới ánh sáng của Người, con người được Thiên Chúa ban ơn cứu độ và được sống đời đời. Đó là cùng đích của đức tin chúng ta.
Vì đức tin là hành vi nhân linh nên đức tin là một hành vi tự do[9], con người có thể đón nhận hay từ chối ơn đức tin. Như một đứa trẻ đã rửa tội từ nhỏ nhưng lớn lên vẫn có thể chọn lựa cách tự do. “Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý; con người phải theo lương tâm đáp lại lời mời gọi ấy, nhưng không bị ép buộc… Điều này chúng ta thấy rõ ràng nơi Đức Kitô”[10]. Ngài mời gọi người ta tin nhưng không ép buộc ai[11].
2.3. Những điều kiện để tin
- Mở tâm hồn và trí lòng ra đón nhận Lời Chúa.
- Tâm linh hướng về điều thiện. Tin là hành động của toàn con người với lý trí, ý chí và tình cảm. Cần phải có lòng ước muốn. Đôi khi phải chấp nhận những hy sinh, phải can đảm khước từ lối sống theo xác thịt, phải nổ lực, cố gắng và kiên trì[12].
- Cần có ơn Chúa giúp. Kín múc ơn Chúa nhờ đời sống cầu nguyện và việc lãnh nhận các bí tích.
2.4. Những cách sống nào lỗi nhân Đức tin và dẫn đến mất đức tin?
- Lười biếng không chịu học hỏi giáo lý và các chân lý mạc khải chứa đựng trong Kinh Thánh và trong giáo huấn của Hội Thánh.
- Nghi ngờ các chân lý mạc khải mà trở thành rối đạo, bỏ đạo hoặc ly khai khỏi Hội Thánh. Chối đạo cách công khai và cố tình tức là chối bỏ đức tin nghĩa là không dám nhận mình là người Kitô hữu. Chối bỏ đức tin là khước từ ơn cứu độ đã nhận được từ Thiên Chúa. Tội này hủy diệt toàn bộ đời sống siêu nhiên. Khi phải chính thức tuyên xưng đức tin mà cố tình im lặng thì cũng như là phủ nhận. Ngày xưa khi sai các tông đồ đi rao giảng, bước đầu Chúa Giêsu đã căn dặn “Khi người ta bắt bớ anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác” (Mt 10, 23). Nhưng đến khi cần thiết, các tông đồ đã theo gương Thầy Chí Thánh chấp nhận chịu chết để hoàn thành sứ mạng, minh chứng cho đức tin. Giáo Hội Việt Nam chúng ta mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam trong tháng 11, các thánh đã anh dũng tuyên xưng đức tin cho dầu có bị hành hình đau khổ, bị giết chết vẫn không chối bỏ đức tin.
- Sống bê tha, vô luân, rượu chè say sưa.
- Không sống đạo, bỏ kinh nguyện hàng ngày, bỏ các phép bí tích như là bỏ xưng tội lâu năm, không chịu lễ.
- Mê tín, coi thầy, bói toán, xem ngày, xem giờ, lên đồng bóng cầu cơ. Liều mình vào những dịp nguy hiểm có thể làm mất đức tin.
3. Áp dụng: Bổn phận đối với đức tin
- Hãy có tâm tình tạ ơn Chúa vì Người đã ban ơn đức tin cho chúng ta.
- Bảo vệ đức tin: Tin và giữ đức tin không phải dễ, nhất là trong bối cảnh hôm nay dễ làm con người xao động, hoài nghi, hoang mang, khủng hoảng. Vì thế cần bình tĩnh, cầu nguyện để được ánh sáng Chúa soi dẫn và đứng vững. Tránh những ảnh hưởng có thể làm lung lay hoặc dẫn đến mất đức tin. Giáo Hội khuyến cáo không nên đọc những sách nguy hại cho đức tin. Tìm đọc những sách đạo đức, những hướng dẫn của Hội Thánh về giáo lý, Thánh Kinh. Đồng thời bênh vực đức tin không mặc cảm khi bị chế diễu.
- Nuôi dưỡng đức tin: Giống như một chậu lan, nếu không chăm sóc, tưới nước, bón phân cây sẽ không ra hoa được, hoặc sẽ cằn cỗi và chết. Hay như một ngọn đèn dầu cần phải châm dầu nếu không có dầu đèn sẽ tắt. Vì vậy cần nuôi dưỡng đức tin bằng việc học hỏi giáo lý; đọc, học hỏi và suy niệm với Thánh Kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích.
- Làm chứng cho đức tin: Chúng ta có thể làm chứng bằng nhiều cách: Bằng lời nói, bằng hành động, bằng chứng nhân. Một ví dụ nhỏ, có nhiều nguời công giáo ra ngoài quán ăn không dám làm dấu thánh giá. Điều này không có nghĩa là chối đạo hay mất đức tin nhưng cho thấy đức tin còn non yếu chưa trưởng thành. Có nhiều cầu thủ bóng đá quốc tế ra sân vẫn làm dấu thánh giá. Nhiều vận động viên quốc tế trước khi thi đấu cũng không ngần ngại làm dấu thánh giá.
- Loan truyền đức tin: Nêu gương sáng đời sống đạo đức, cầu nguyện cho người chưa có hoặc đã mất đức tin. Tham gia vào các hội đoàn của giáo xứ, đời sống đạo, những sinh hoạt của giáo xứ, đặc biệt là tham gia vào công cuộc truyền giáo. “Các con là ánh sáng của thế gian…người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng” (Mt 5, 14-17).
4. Ghi nhớ
1. H. Đức tin là gì ?
T. Đức tin là nhân đức siêu nhiên, là hồng ân Thiên Chúa ban giúp ta vững lòng tin tưởng phó thác vào Chúa mà chấp nhận những điều Chúa dạy và nhờ Hội Thánh truyền lại cho ta.
2. H. Con người đáp lại Lời Thiên Chúa như thế nào?
T. Con người đáp lại mạc khải Thiên Chúa bằng sự vâng phục đức tin.
3. H. Vâng phục đức tin là gì ?
T. Vâng phục đức tin là tin tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa và đón nhận chân lý của Ngài đồng thời để Ngài làm chủ và hướng dẫn đời ta.
4. H. Đức tin có những đặc điểm chính yếu nào?(GLHT câu 28)
T. Đức tin vừa là ơn Thiên Chúa ban, vừa là sự đáp trả có ý thức và tự do của con người.
5. H. Có những tội nào phạm đến đức tin?
T. Có những tội này:
- Một là thờ ơ không chịu tìm hiểu các chân lý mạc khải
- Hai là cố ý nghi ngờ, hoặc chối bỏ các chân lý ấy, mà trở thành rối đạo, bỏ đạo, hoặc ly khai khỏi Hội Thánh.