Để chuẩn bị cho Đại hội này, Đức Tổng giám mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, đã gửi đến các Hội đồng Giám mục trên thế giới một Tài liệu chuẩn bị, trình bày những suy tư căn bản, kèm theo Bản Câu hỏi, mời gọi các Giáo Hội địa phương đóng góp ý kiến. Theo yêu cầu của Đức Tổng giám mục Baldisseri, các Giáo Hội địa phương phải gửi bản góp ý của mình về cho Roma chậm nhất là cuối tháng 1/2014.
Sau đây xin giới thiệu Tài liệu chuẩn bị nói trên, do Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục chuyển ngữ.
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
ĐẠI HỘI NGOẠI THƯỜNG LẦN THỨ BA
CÁC THÁCH ĐỐ MỤC VỤ VỀ GIA ĐÌNH
TRONG BỐI CẢNH CỦA CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG
TÀI LIỆU CHUẨN BỊ VATICAN 2013
I) Thượng Hội đồng: Gia đình và việc loan báo Tin Mừng
Sứ vụ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo đã được Chúa trực tiếp trao phó cho các môn đệ của Người và Hội Thánh là sứ giả loan tin trong dòng lịch sử. Thời đại hôm nay trong đó chúng ta đang sống, khủng hoảng xã hội và tâm linh hiển nhiên đã trở thành một thách đố mục vụ chất vấn sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh cho gia đình, vốn là tế bào sống động của xã hội và Giáo Hội. Việc loan báo Tin Mừng cho gia đình trong bối cảnh này là một việc khẩn cấp và cần thiết hơn bao giờ hết. Tính cách quan trọng của chủ đề này được bầy tỏ qua sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định thiết lập cho Thượng Hội đồng các Giám mục một lộ trình làm việc qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, Đại hội ngoại thường năm 2014, nhằm mục đích xác định “Status quaestionis” (các vấn đề đặt ra) và thu thập các chứng từ và đề nghị của các Đức Giám mục để loan báo và sống Tin Mừng về gia đình một cách thuyết phục; giai đoạn hai, Đại hội thường lệ năm 2015, nhằm tìm kiếm những hướng hành động cho mục vụ hướng đến nhân vị và gia đình.
Ngày nay, có những hoàn cảnh chưa từng có cho đến những năm cuối này, từ tình trạng ngày càng phổ biến các cặp sống chung tự do không ràng buộc bởi kết hôn, và thậm chí có khi loại trừ cả ý tưởng hôn nhân, cho đến tình trạng sống chung giữa những người đồng tính, thường được phép nhận con nuôi. Trong vô số những hoàn cảnh mới đòi hỏi Hội Thánh cần quan tâm và dấn thân mục vụ, có thể kể ra những hoàn cảnh đáng lưu ý nhất sau đây: hôn nhân hỗn hợp hay khác tôn giáo; gia đình chỉ với một mẹ hoặc một cha; đa thê; các cuộc hôn nhân được sắp đặt với vấn đề của hồi môn, đôi khi được đồng hóa với một gia sản mà người làm vợ đắc thủ; hệ thống các giai cấp xã hội; nền văn hóa phi dấn thân và các mối liên kết được giả định không bền vững; những hình thức chủ nghĩa nữ quyền thù địch với Giáo Hội; những hiện tượng di dân và định nghĩa lại ý niệm gia đình; chủ nghĩa đa nguyên tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông trên nền văn hóa đại chúng lên quan niệm về hôn nhân và đời sống gia đình; những trào lưu tư tưởng khơi dậy những kiến nghị về lập pháp hạ thấp giá trị về tính trường tồn và chung thủy của hôn nhân; hiện tượng ngày càng nhiều những bà mẹ mang thai hộ; những kiểu giải thích mới về nhân quyền. Thế nhưng trước hết ở ngay trong phạm vi Giáo Hội theo nghĩa hẹp, đức tin bị suy giảm hay từ bỏ, nhất là niềm tin vào tính bí tích của hôn nhân và tin vào quyền năng chữa lành của bí tích sám hối.
Từ đó, người ta hiểu hàng Giám mục trên thế giới cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô (“cum et sub Petro”) khẩn thiết phải quan tâm đến vấn đề khi đối diện với những thách đố này. Thí dụ như người ta chỉ cần nghĩ tới sự kiện này là trong bối cảnh hiện nay có bao nhiêu là trẻ con và các thanh thiếu niên, sinh ra từ những cuộc hôn nhân trái qui tắc, không bao giờ có thể thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, chúng ta hiểu tính chất cấp thiết như thế nào của các vấn đề được đặt ra bởi các thách đố cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hiện nay, một hoàn cảnh khá phổ biến khắp nơi trong “ngôi làng toàn cầu”. Thực tế này có một vang âm đặc biệt trong bầu khí ngày nay đông đảo những con người ở khắp nơi đón nhận những giáo huấn về Lòng Chúa Thương Xót và về Lòng Lân Ái đối với những người bị thương tổn, bị gạt ra bên lề xã hội và cuộc sống. Như vậy, nhiều người rất trông đợi Giáo Hội có những lựa chọn về mục vụ gia đình. Như thế, xem ra là rất cần thiết và khẩn cấp có một suy nghĩ ở cấp Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về chủ đề này, đó như là một biểu lộ của đức ái mục tử đối với đàn chiên được giao phó cho các ngài và đối với toàn thể gia đình nhân loại.
II) Giáo Hội và Tin Mừng về gia đình
Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa phải được loan báo cho những ai sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng cá vị này, kinh nghiệm sống đời vợ chồng và hiệp thông mở ra với tặng phẩm sự sống là con cái, tức là cộng đoàn gia đình. Giáo lý đức tin về hôn nhân phải được trình bày một cách có hiệu quả và thông truyền sống động, để có thể chạm tới cõi lòng người ta và làm họ biến đổi theo thánh ý của Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô.
Ở đây chỉ nhắc lại những tham chiếu Kinh Thánh cốt yếu. Về các tài liệu về Huấn Quyền cũng thế, ở đây chỉ xin giới hạn vào các tài liệu của Huấn Quyền phổ quát của Giáo Hội, và thêm vào đó một đôi tài liệu của Hội Đồng Tòa Thánh về gia đình và phần còn lại để cho các Giám mục tham dự Thượng Hội đồng đóng góp những tài liệu từ các cơ quan cấp Hội Đồng Giám Mục.
Trong mọi thời và trong các nền văn hóa rất khác biệt nhau chưa bao giờ có một mẫu chuẩn về một giáo huấn rõ ràng của các đấng mục tử cũng như về chứng từ cụ thể của các tín hữu, nam cũng như nữ, sống Tin Mừng về gia đình trong những hoàn cảnh rất dị biệt như là một quà tặng vô cùng quý giá cho cuộc sống của họ và của con cái họ. Sự dấn thân cho Thượng Hội đồng ngoại thường sắp tới này được thúc đẩy và nâng đỡ bởi ước muốn thông truyền cho mọi người công việc này, một cách mạnh mẽ hơn nữa, để rồi hy vọng rằng “kho tàng Mạc Khải, được trao cho Giáo Hội, ngày càng lấp đầy trái tim con người” (Dei Verbum, 26).
Kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Đấng Cứu Chuộc
Nét đẹp của sứ điệp Kinh Thánh về gia đình bắt nguồn từ công trình sáng tạo người nam và người nữ, vốn được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,24-31; 2, 4b-25). Được kết hợp bởi một dây liên kết bất khả phân ly, đôi vợ chồng sống vẻ đẹp của tình yêu, của tình phụ tử, tình mẫu tử và phẩm giá cao vời được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Đón nhận hồng ân hoa quả của sự kết hợp vợ chồng, đôi bạn đảm nhận lấy trách nhiệm nuôi nấng và giáo dục các ngôi vị khác, tức là con cái họ, vì tương lai của nhân loại. Qua việc sinh sản, người nam và người nữ, thực thi trong đức tin ơn gọi làm người cộng tác với Thiên Chúa để duy trì tạo thành và làm tăng trưởng gia đình nhân loại.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã giải thích khía cạnh này trong Tông Huấn về Gia Đình Familiaris consortio: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như họa ảnh của Ngài (x. St 1, 26t). Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8), Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông (x. Gaudium et spes 12). Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người” (Familiaris Consortio, 11). Kế hoạch đó của Thiên Chúa Tạo Thành, vốn bị tội nguyên tổ làm đảo lộn (x. St 3,1-24), đã được tỏ ra trong lịch sử qua các biến cố thăng trầm của Dân được tuyển chọn cho đến thời viên mãn, khi mà Con Thiên Chúa nhập thể làm người không chỉ xác nhận thánh ý của Thiên Chúa muốn cứu độ, mà nhờ sự cứu chuộc Người còn ban ân sủng để ta có thể vâng phục thánh ý Ngài.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời làm người (x. Ga 1,14) trong cung lòng của Mẹ Đồng Trinh đã sống và lớn lên trong gia đình Nazaret và tham dự tiệc cưới Cana và làm cho nghi lễ ấy được phong phú với “dấu lạ” đầu tiên (x. Ga 2, 1-11). Người hoan hỷ đón nhận sự đón tiếp thân tình từ các môn đệ đầu tiên (x. Mc 1, 29-31; 2, 13-17) và Người an ủi gia đình của các bạn hữu trong cuộc lễ mai táng tại Bêtania (x. Lc 10, 38-42; Ga 11,1-44).
Đức Giêsu Kitô đã tái lập vẻ đẹp của hôn nhân khi đề xướng lại một lần nữa ý định của Thiên Chúa về sự kết hợp hôn nhân mà con người đã loại bỏ vì lòng chai dạ đá, thậm chí có ở ngay giữa truyền thống dân Israel (x. Mt 5, 31-32; 19, 3-12; Mc 10, 1-12; Lc 16, 18). Trở về với thuở ban đầu, Đức Giêsu đã dạy trong hôn nhân đôi bạn phải hợp nhất và chung thủy với nhau, Người từ chối sự rẫy bỏ và ngoại tình. Vẻ đẹp của tình yêu con người đã được ca tụng dưới sự linh hứng ở trong sách Diễm Tình Ca, và dây liên kết hôn phối được yêu cầu và bảo vệ bởi các vị Tiên Tri, như Hôsê (x. Hs 1, 2-3, 3) và Malaki (x. Ml 2, 13-16). Chính qua vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu con người đó mà Đức Giêsu khẳng định phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân giữa người nam và người nữ.
Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình
Trong cộng đoàn Kitô giáo sơ khai, gia đình cũng xuất hiện như là “Hội Thánh tại gia” (x. GLHTCG 1655). Trong những cái gọi là “Bộ luật gia đình” của các Thư các Tông đồ của Tân Ước, gia đình lớn của thế giới cổ đại được nhìn nhận như là nơi chốn của tình liên đới sâu xa nhất giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa người giầu và người nghèo (x. Ep5, 21-6, 9; Cl 3, 18-4, 1; 1Tm 2, 8-15; Tt 2, 1-10; 1Pr 2, 13-3, 7; x. Thư gửi Philêmon). Đặc biệt thư gửi tín hữu Ephêsô nhìn nhận tình yêu hôn phối nơi người nam và người nữ là “mầu nhiệm cao cả”, vì làm cho tình yêu của Đức Kitô và Hội Thánh hiện diện trong thế giới (x. Ep 5, 31-32).
Qua dòng thời gian, nhất là thời hiện đại và cho đến ngày nay, Hội Thánh đã không ngừng và ngày càng tiến bộ ban những giáo huấn về gia đình và hôn nhân (vốn là nền tảng của gia đình). Một trong những diễn tả quan trọng nhất đã được Công Đồng Chung Vatican II đề nghị, trong Hiến Chế Mục vụ Gaudium et spes, trong khi đề cập một số vấn đề cấp bách nhất đã dành cả một chương để đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Giá trị của hôn nhân và gia đình được mô tả là để xây dựng xã hội: “Như thế, gia đình chính là nền tảng của xã hội, vì đó là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau mở rộng kiến thức khôn ngoan, cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội” (GS 52). Đôi vợ chồng tín hữu được mời gọi một cách hết sức mãnh liệt sống linh đạo lấy Đức Kitô làm trung tâm: “ Chính các đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và được an định trong trật tự hài hòa của các nhân vị, hãy luôn hợp nhất với nhau trong tình yêu thương, đồng tâm hiệp ý, và cùng thánh hóa lẫn nhau, để khi bước theo Đức Kitô là nguyên lý sự sống, giữa bao niềm vui cũng như hy sinh trong ơn gọi và nhờ luôn sống trong một tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của Người” (GS 52 ).
Các Đấng kế vị thánh Phêrô, sau Công Đồng Vatican II, cũng đã làm phong phú thêm, qua Huấn Quyền của các ngài, giáo lý về hôn nhân và gia đình. Đặc biệt Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban những giáo huấn liên quan cả về mặt nguyên tắc lẫn về mặt thực hành qua Thông điệp Humanae vitae. Kế đến, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô trong Tông huấn Familiaris consortio cũng muốn nhấn mạnh khi đưa ra kế hoạch của Thiên Chúa về vấn đề sự thật về nguồn gốc của tình yêu giữa đôi vợ chồng và tình yêu của gia đình: “ “Nơi” duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể thực hiện được với trọn cả sự thật của nó chính là hôn nhân, nghĩa là khế ước tình yêu hôn phối, hay nói cách khác, là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó mà người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình yêu như chính Thiên Chúa đã muốn (x. GS 48), và cũng chỉ dưới ánh sáng này, sự chọn lựa kia mới bầy tỏ ý nghĩa đích thật của nó. Định chế hôn nhân không phải là một sự can thiệp tùy tiện của xã hội hay công quyền, cũng không phải là sự áp đặt của một mô thức từ bên ngoài; định chế ấy là một đòi hỏi từ bên trong khế ước tình yêu hôn phối, được xác định công khai như khế ước duy nhất và tuyệt đối để đôi bạn nhờ đó có thể sống trung thành trọn vẹn với ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa. Sự trung thành này không hề làm giảm tự do của nhân vị, ngược lại còn giúp cho tự do ấy khỏi rơi vào những thái độ chủ quan và các thứ chủ nghĩa tương đối, và làm cho nó được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa Tạo Hóa” (FC 11).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng đưa ra những dữ kiện nền tảng sau đây: “Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sống chung thân mật và yêu thương, đã được Đấng tạo Hóa thiết lập và sắp xếp theo những quy luật riêng. Tự bản chất, hôn nhân hướng tới thiện ích của đôi phối ngẫu, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những người đã chịu Phép Rửa được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích [x. Cđ Vatican II, Gaudium et spes, 48; Bộ Giáo Luật, đ.1055,1]” (GLHTCG 1660).
Giáo thuyết của sách Giáo Lý đã xem xét cả về những nguyên tắc thần học lẫn những hành vi luân lý, được trình bày qua hai tiêu đề khác biệt: Bí tích hôn nhân (s. 1601-1658) và Điều răn thứ sáu (s. 2331-2391). Đọc kỹ những phần này của sách Giáo Lý sẽ cho ta một hiểu biết hiện đại về giáo lý đức tin để chống đỡ cho hành động của Hội Thánh trước những thách đố hiện nay. Mục vụ của Hội Thánh được gợi hứng từ chân lý của hôn nhân được nhìn trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng người nam và người nữ và, đã mạc khải trong thời viên mãn nơi Đức Giêsu Tình yêu viên mãn giữa đôi vợ chồng đã được nâng lên hàng bí tích. Hôn nhân kitô giáo, dựa trên cơ sở của sự ưng thuận, còn được phú ban cho những hiệu quả riêng, cả những thiện ích lẫn nghĩa vụ của đôi vợ chồng, tuy nhiên hôn nhân cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của vòng tội lỗi (x. St 3,1-24) vốn có thể gây ra những vết thương sâu đậm và làm hạ cấp cả phẩm giá của chính bí tích.
Gần đây Thông điệp Lumen fidei của đức Giáo hoàng Phanxicô nói về gia đình trong tương quan với đức tin, về điều đó ta nhận thấy rằng “mối liên kết giữa người ta với nhau mạnh mẽ như thế nào khi có Thiên Chúa hiện diện giữa họ” (LF50). “Môi trường đầu tiên trong đó đức tin chiếu sáng xã hội người ta là gia đình. Tôi tưởng nghĩ trước tiên đến sự kết hợp bền vững giữa người nam và người nữ trong hôn nhân. Hôn phối này sinh ra từ tình yêu của họ cho nhau, là dấu chỉ và là sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, từ sự nhìn nhận và chấp nhận sự khác biệt giới tính, là một thiện hảo nhờ đó đôi phối ngẫu có thể kết hợp với nhau nên một xương một thịt (x. St 2,24) và sinh hạ sự sống mới, biểu lộ sự nhân lành của Đấng Tạo Hóa, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Ngài. Dựa trên nền tảng của tình yêu này, người nam và người nữ mới có thể hứa yêu thương nhau bằng một hành động dấn thân suốt cuộc đời và phản chiếu đức tin trên nhiều phương diện. Hứa yêu thương nhau mãi mãi là điều khả thể khi người ta biết được có một kế hoạch vĩ đại hơn những dự phóng riêng của mình, nó nâng đỡ ta và khiến ta có thể phó dâng cả tương lai mình cho người mình thương yêu” (LF 52). “Đức tin không phải là nơi ẩn náu cho những con người không nhuệ khí, nhưng làm triển nở đời sống. Đức tin giúp ta nhận biết tiếng gọi kỳ diệu, là ơn gọi tình yêu, và nó bảo đảm cho ta tình yêu ấy là đáng cậy tin và đáng cho ta dấn thân đảm nhận lấy, bởi lẽ nó dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa, vốn mạnh mẽ hơn những nỗi yếu hèn của ta” (LF 53).
III) Bản Câu hỏi
Những câu hỏi dưới đây giúp các Hội Thánh địa phương tham dự tích cực vào sự chuẩn bị cho Thượng Hội đồng ngoại thường này hướng tới mục đích loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh bao nhiêu là thách đố mục vụ ngày nay liên hệ tới gia đình.
1. Về việc phổ biến Kinh Thánh và Huấn Quyền của Giáo hội về gia đình
a) Mức độ hiểu biết thực sự của các tín hữu về giáo huấn của Kinh Thánh, của Công Đồng Vatican II (Hiến chếGaudium et spes), của Tông huấn “Familiaris consortio” và các tài liệu khác của Huấn Quyền hậu Công Đồng về giá trị của gia đình theo Hội Thánh Công Giáo như thế nào? Làm thế nào để các tín hữu của chúng ta được đào tạo về đời sống gia đình theo giáo huấn của Hội Thánh?
b) Những nơi biết giáo huấn của Hội Thánh, người ta có đón nhận trọn vẹn giáo huấn ấy không? Có những khó khăn gặp thấy trong áp dụng thực hành hay không? Đó là những khó khăn nào?
c) Làm thế nào để giáo huấn của Hội Thánh được lan truyền qua các chương trình mục vụ ở cấp toàn quốc, cấp giáo phận và giáo xứ? dạy Giáo lý về gia đình như thế nào?
d) Ở mức độ nào – và đặc biệt ở những khía cạnh nào – giáo huấn này thực sự được biết, được đón nhận, hoặc bị từ chối hay phê phán trong những phạm vi bên ngoài Giáo hội? Có những yếu tố văn hóa nào ngăn cản người ta đón nhận trọn vẹn giáo huấn của Giáo hội về gia đình?
2. Về hôn nhân theo luật tự nhiên
a) Khái niệm luật tự nhiên chiếm vị trí nào trong nền văn hóa dân sự, ở cấp cơ cấu định chế, giáo dục và học vấn, cũng như ở bình diện phổ cập trong người dân? Có những quan niệm về nhân học nào ở nền tảng của cuộc chiến đấu cho nền móng tự nhiên của gia đình này?
b) Những Kitô hữu nói chung hiện nay có đón nhận khái niệm luật tự nhiên về sự kiện một người nam và một người nữ kết hợp với nhau, đúng như nó là thế, hay không?
c) Làm sao, cả trên lý thuyết lẫn trong thực hành, luật tự nhiên về sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ nhằm tạo nên một gia đình lại bị phản đối? Luật tự nhiên đó được đề xướng và đào sâu như thế nào trong các cơ quan, tổ chức, dân sự và Giáo hội?
d) Nếu như những người đã-chịu-phép-Rửa mà không thực hành đạo hay những người tự tuyên bố mình là người-không-tin xin cử hành lễ thành hôn, trước những thách đố mục vụ này chúng ta làm thế nào?
3. Mục vụ gia đình trong bối cảnh của công cuộc Loan báo Tin Mừng
a) Trong những thập niên vừa qua, có nảy sinh những kinh nghiệm nào liên quan tới việc chuẩn bị hôn nhân? Đã có những nỗ lực nào kích thích bổn phận loan báo Tin Mừng cho các cặp vợ chồng và gia đình hay không? Làm thế nào để phát huy ý thức gia đình như là “Hội Thánh tại gia” ?
b) Anh chị em đã có những đề nghị phương thức cầu nguyện nào trong gia đình khả dĩ đề kháng trước hoàn cảnh đời sống và văn hóa phức tạp ngày nay không?
c) Trong hoàn cảnh hiện nay với cuộc khủng hoảng giữa các thế hệ, làm thế nào để các gia đình kitô hữu có thể thực hiện ơn gọi riêng của mình là thông truyền đức tin?
d) Các giáo hội địa phương và các phong trào linh đạo gia đình làm thế nào để tạo ra được những lộ trình hay định hướng như để làm mẫu?
e) Các cặp vợ chồng và gia đình có thể góp phần được gì theo cách riêng của mình để lan truyền một tầm nhìn toàn diện về đôi vợ chồng và về gia đình kitô hữu đáng tin cậy cho con người ngày nay?
f) Giáo hội đã bày tỏ những quan tâm mục vụ nào hầu nâng đỡ các đôi bạn đang chuẩn bị tiến đến hôn nhân và các đôi vợ chồng đang gặp khủng hoảng?
4. Về mục vụ trước những hoàn cảnh hôn nhân gặp khó khăn
a) Các cặp sống chung không kết hôn, hay gọi là sống thử, có phải là một thực tế đáng quan ngại trong Giáo hội địa phương của anh chị em không? Xét về con số, các cặp đó được ước lượng khoảng bao nhiêu phần trăm?
b) Có những cặp sống chung tự do, nghĩa là không ràng buộc cũng không hề được nhìn nhận cả về tôn giáo lẫn dân sự hay không? Có dữ kiện thống kê nào chắc chắn không?
c) Những người ly thân và ly dị tái hôn có phải là một thực tế mục vụ quan ngại trong Giáo hội địa phương của anh chị em không? Ước lượng tỷ lệ là bao nhiêu? Các chương trình mục vụ phải thích nghi thế nào trước thực tế này?
d) Trong tất cả các trường hợp đó, những người đã-chịu-phép-Rửa sống như thế nào tình cảnh trái qui tắc đó của họ? Họ có ý thức điều đó không? Hay đơn giản là, họ tỏ ra dửng dưng về tình trạng ấy của họ? Họ có cảm thấy bị gạt ra bên lề và đau khổ vì không được lãnh nhận các bí tích không?
e) Những người ly dị và tái hôn có những yêu cầu gì đối với Giáo hội về vấn đề các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải? Trong số những người đó có bao nhiêu người xin lãnh nhận các bí tích ấy?
f) Đơn giản hóa thực hành thủ tục Giáo luật nhìn nhận sự tuyên bố một dây hôn phối bất thành có thực sự góp phần tích cực hay không để giải quyết các vấn đề của những người liên quan?
g) Có một chương trình mục vụ riêng cho những trường hợp này không? Làm sao để tiến hành những hoạt động mục vụ đó? Có những chương trình mục vụ nào riêng về vấn đề này ở cấp giáo phận và cấp toàn quốc không? Làm thế nào để Lòng Từ Bi hay Thương Xót của Chúa được loan báo cho những người ly thân và ly dị tái hôn ? Giáo hội làm gì cụ thể để nâng đỡ những người ấy trong cuộc lữ hành đức tin của họ?
5. Về những người kết hợp đồng tính
a) Trong nước của anh chị em có luật dân sự nào công nhận cuộc sống chung giữa những người cùng giới như một cái gì tương đương với kết hợp của hôn nhân không?
b) Các Giáo hội địa phương có thái độ thế nào, đối với Chính Quyền ủng hộ những định chế cho những kết hợp dân sự giữa những người đồng giới như thế, cũng như đối với những người trong cuộc dấn thân cho mục đích đó?
c) Giáo hội cần lưu tâm chăm sóc mục vụ như thế nào đối với những người đã chọn sống kiểu sống kết hợp đó?
d) Động thái mục vụ nào thì thích hợp trong trường hợp của những cặp kết hợp đồng tính có nhận con nuôi nhằm tới thông truyền đức tin?
6. Về việc giáo dục con cái ngay trong chính những trường hợp hôn nhân trái phép (rối)
a) Tỉ lệ ước tính những đứa trẻ và trẻ vị thành niên trong những trường hợp (bị rối) này là bao nhiêu so với những đứa trẻ được sinh ra, nuôi nấng và dạy dỗ trong các gia đình đúng phép đạo?
b) Những người cha người mẹ này gặp gỡ trao đổi với tâm thái hay tinh thần như thế nào? Họ yêu cầu điều gì? Họ chỉ xin lãnh các bí tích hay còn xin được học giáo lý nữa?
c) Các Giáo hội địa phương đáp ứng như thế nào những nhu cầu của các bậc cha mẹ những đứa trẻ này nhằm để cho họ hưởng được một nền giáo dục đức tin kitô ?
d) Thực hành các bí tích như thế nào trong những trường hợp đó: sự chuẩn bị, trao ban và đồng hành trong cử hành và sống các bí tích?
7. Về việc hướng các đôi bạn đến đón nhận sự sống mới
a) Các kitô hữu có biết cụ thể giáo lý của (Thông điệp) Humanae vitae về việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm không? Người ta có biết đánh giá về mặt luân lý các phương pháp điều hòa sinh sản khác nhau không? Từ quan điểm mục vụ, nên gợi ý có thể đi sâu vào hướng nào về vấn đề này?
b) Giáo thuyết luân lý đó có được đón nhận không? Những mặt nào gây rắc rối nhất khiến cho phần lớn các cặp có khó khăn đón nhận?
c) Giáo hội địa phương ủng hộ những phương pháp tự nhiên nào để giúp các đôi phối ngẫu thực hành giáo huấn củaHumanae vitae ?
d) Có những kinh nghiệm nào về đề tài này trong khi thực hành Bí tích Giao hòa và tham dự vào Bí tích Thánh Thể?
e) Giữa Giáo lý của Giáo hội về vấn đề này với giáo dục công dân trong xã hội có sự tương phản rõ rệt nào không?
f) Khuyến khích như thế nào phát huy não trạng thoáng đạt đối với việc sinh sản? Làm sao để tạo điều kiện thuận lợi tăng trưởng số sinh?
8. Về mối tương quan giữa gia đình và cá nhân
a) Đức Giêsu Kitô mạc khải mầu nhiệm và ơn gọi của con người : phải chăng gia đình là cảnh vực ưu việt để thực hiện ơn gọi này?
b) Những tình cảnh gai góc nào của gia đình trong thế giới hôm nay có thể là trở ngại cho sự gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô ?
c) Những khủng hoảng đức tin mà người ta có thể trải qua có ảnh hưởng như thế nào trên đời sống gia đình?
9. Những thách đố khác và những đề nghị
Về những chủ đề gợi ra trong Bản Câu hỏi này, anh chị em có những ý kiến gì khác về những thách đố hoặc những đề nghị nào cho là cấp bách và hữu ích hay không?
Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục