Bây giờ tới Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh là nhữngg ngày trọng đại nhất trong Năm phụng vụ. Vì thế chúng ta tìm hiểu ý nghĩa những ngày này để có thể cử hành xứng đáng và đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Chúng ta cần lưu ý tới ba điểm sau đây :
1. hiểu rõ ý nghĩa của Tuần Thánh
2. cử hành sốt sắng các lễ nghi Tuần thánh
3. một số lưu ý đặc biệt.
I. Ý nghĩa Tuần Thánh
Hiểu rõ ý nghĩa Tuần thánh và Tam nhật thánh là một điều quan trọng, vì vô tri bất mộ. Chính vì nhận thấy sự cần thiết này, nên Đức Giáo Hoàng Piô XII đã cho cải tổ Lễ nghi cử hành Tam nhật thánh (năm 1951) và Lễ nghi cử hành Tuần Thánh (năm 1955). Công đồng Vaticanô II cũng đã lưu ý tới điều này trong Hiến chế về phụng vụ Thánh Công đồng chung : “Mỗi năm một lần, Giáo Hội còn cử hành hết sức trọng thể vào dịp lễ Phục sinh sự sống lại cùng với cuộcThương khó của Người” (PV, 102).
Vậy Tuần Thánh và Tam nhật thánh có ý nghĩa như thế nào?
1. Thời gian cử hành
Về thời gian, Tuần thánh bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá, hay Chúa Nhật thương khó, ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư sau đó, và sáng thứ năm. Bốn ngày này là những ngày cuối cùng của Mùa Chay thánh.
Tam Nhật thánh, bắt đầu từ Thánh Lễ Tiệc ly vào chiều thứ năm tuần thánh, tiếp theo là thứ sáu Tuần thánh, thứ bảy Tuần thánh và Chúa Nhật phục sinh.
Đây là tột đỉnh của Mùa Chay Thánh và trung tâm của Năm phụng vụ. Các Giáo phụ gọi Tuần thánh là tuần trọng nhất trong Năm phụng vụ, tuần lễ mẹ các tuần lễ.
Nếu nhìn vào việc thành hình Năm phụng vụ, thì việc cử hành Ngày Chúa nhật hằng tuần và việc cử hành Lễ Phục sinh mỗi năm là khởi điểm của Năm phụng vụ. Các tín hữu thường tập họp mỗi ngày Chúa nhật để tưởng nhớ lại biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại. Rồi mỗi năm có việc cử hành các biến cố này một cách trọng thể hơn và đặc biệt hơn. Sau đó mới dần dần thành hình các việc cử hành các ngày lễ khác, và các mùa khác trong Năm phụng vụ. Ngay trong việc thành hình các Sách phúc âm, thì đơn vị văn chương tường thuật việc Chúa Kitô sống lại, và cuộc thương khó của Chúa cũng được coi là đơn vị đầu tiên được viết ra cho cộng đoàn tín hữu sơ khởi. Các Thánh ký viết phúc âm đã xử dụng các bài tường thuật cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Kitô như là đỉnh chót của việc loan báo tin mừng về Chúa Kitô.
2. Nội dung của Tuần thánh và Tam nhật thánh
Chúng ta có thể nói ngay : đó là những biến cố vượt qua của Chúa Giêsu Kitô : việc Chúa chịu đau khổ, chết trên thập giá và sống lại. Mầu nhiệm vượt qua là trung tâm điểm của các việc cử hành trong Năm phụng vụ, của Tuần thánh và Tam nhật thánh. Công đồng chung Vaticanô II đã nhấn mạnh nhiều tới điều này trong Hiến chế về phụng vụ (các số 5. 6. 61. 102). Văn Kiện Những quy luật tổng quát năm phụng vụ (= QLTQNPV) nói một cách hết sức rõ ràng : “Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Người... Chính Tam nhật Vượt qua, nhằm tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột đỉnh của cả Năm phụng vụ” (số 18 ; xc. số 19). Như vậy cử hành mầu nhiệm này là cử hành công cuộc cứu chuộc chúng ta và toàn thể nhân loại.
3. Xét về cách thế cử hành
Đi từ cách xếp đặt Tuần thánh, cũng như Tam Nhật Vượt qua, và nội dung cử hành, một hệ luận tất nhiên suy diễn ra từ đó ra, là phải cử hành rất long trọng, làm sao cho đúng với tầm quan trọng của nội dung cử hành này (xc. QLTQNPV, 1). Từ đây chúng ta thấy Tuần thánh và Tam nhật thánh có những lễ nghi đặc biệt và đã có từ lâu đời trong truyền thống phụng vụ. Lễ nghi không chỉ gồm việc cử hành thánh lễ, nhưng còn gồm các nghi lễ, phụ tích khác, giúp làm sáng tỏ mầu nhiệm và biến cố chứa đựng mầu nhiệm đó. Các lễ nghi này gợi hứng từ các biến cố cuối đời của Chúa Giêsu, thêm vào đó những hình ảnh lấy từ biến cố vượt qua của người Do thái xưa, nhằm làm sáng tỏ biến cố cuối cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian. Việc dùng các biểu hiệu rất phong phú, như biểu hiệu lá cây trong Chúa nhật đầu Tuần thánh, nến phục sinh trong Đêm vọng thứ bảy Tuần thánh. Âm nhạc, nhất là bình ca cũng được sáng tác hợp với diễn tiến buổi cử hành. Thời gian cử hành cũng cố gắng hết sức theo sát diễn tiến của các biến cố thánh, khác hẳn với thời gian các buổi cử hành trong cả năm. Tất cả nhằm làm sáng tỏ nội dung thần học của việc cử hành, và giúp tín hữu đi vào mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô một cách sâu xa hơn.
II. Cử hành Tuần Thánh
và Tam Nhật Thánh thế nào ?
Với những chỉ dẫn trên đây, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của Tuần thánh và Tam Nhật Thánh, và từ đây, ý thức về việc cử hành những ngày này phải thực sự rõ ràng: làm sao để cử hành các lễ nghi Tuần thánh và Tam nhật thánh hết sức long trọng và làm sao để giáo hữu tham dự hết sức đông đảo, và tham dự cách tích cực. Về điểm này, chính Công đồng chung Vaticanô đã nhắc tới : “...Giáo hội còn cử hành hết sức trọng thể vào dịp Lễ Phục sinh sự sống lại cùng với cuộc thương khó hồng phúc của Người” (PV, 102).
Để cụ thể hóa việc cử hành hết sức trọng thể Tuần thánh và Tam Nhật Vượt qua, chúng ta cần nhớ các điểm sau đây :
1. Phải tôn trọng thời gian cử hành, nơi cử hành và cơ cấu các buổi cử hành, như đã được quy định trong Sách Lễ Rôma. Các yếu tố này có một ý nghĩa biểu hiệu của chúng và đã có một truyền thống lâu đời. Chúng ta cần lưu tâm để không đem những sáng kiến cá nhân vào, làm lệch lạc cơ cấu, mất ý nghĩa nội tại của chúng.
2. Phải chuẩn bị trước các đồ dùng cần thiết cho mỗi buổi cử hành. Các thừa tác viên, nhất là các linh mục chủ sự phải biết rõ các nghi lễ cử hành. Các người giúp lễ phải được tập dượt trước để biết các việc phải làm và các cử chỉ, điệu bộ phải có. Linh mục nên dành thời giờ để đọc trước nghi lễ sẽ cử hành, các bản văn phụng vụ, các lời kinh phải đọc, nhất là khi có các lời kinh khác nhau có thể chọn lựa. Con số người giúp lễ cũng phải liệu con số đầy đủ để có thể nói là buổi cử hành trọng thể nhất trong năm. Thay vì chỉ có linh mục và một người giúp lễ mà thôi.
3. Giáo dân cần được giải thích trước để hiểu ý nghĩa các lễ nghi mà mỗi năm họ chỉ tham dự một lần mà thôi. Vì thế nếu được nên có những lời giải thích, vào những ngày trước khi cử hành, hoặc trước giờ cử hành các nghi lễ.
Phần vụ dành cho tín hữu : các lời đọc, đối đáp, phận vụ phụng vụ, những bái hát, cần để cho họ tham dự và thực hiện, thay vì một số người làm hết, hát hết, thay cho cộng đoàn.
4. Tính cách cộng đoàn cần phải được tôn trọng hết sức. Vì thế, các lễ nghi riêng rẽ, cần giảm bớt, nếu không vì lý do mục vụ chính đáng và luật phụng vụ cho phép. Các nhóm nhỏ, cũng phải hy sinh các sinh hoạt riêng rẽ trong Tuần thánh để dành tất cả thời giờ cho việc chuẩn bị và tham dự các lễ nghi Tuần thánh và Tam nhật thánh với cộng đoàn giáo xứ. Không nên cử hành riêng một lễ nghi cho một nhóm nào.
5. Tại nhà thờ chính tòa, tất cả các nghi thức phải được cử hành do giám mục giáo phận chủ sự. Đức Thánh Cha đã chủ sự các lễ nghi từ Chúa nhật lễ lá và Tam nhật thánh tại Rôma. Nếu vai trò chủ sự của giám mục cần thiết cho các buổi cử hành khác có tính các giáo phận, thì trong Tuần thánh và Tam nhật thánh vai trò chủ sự này càng quan trọng hơn và ý nghĩa hơn (xc. Sách cử hành phụng vụ của giám mục, Caeremoniale episcoporum, số 296).
6. Tính cách trọng thể được biểu lộ qua việc hát trong khi cử hành. Vì thế các ca trưởng phải chọn lựa bài thánh ca cho từng buổi cử hành đã được Hội đồng giám mục chấp thuận, và chọn theo ý nghĩa của mỗi lễ nghi, mỗi buổi cử hành. Các phần chung, cần tìm các bài hát thật dễ cho cộng đoàn cùng hát. Các phần dành cho linh mục, thừa tác viên cũng cần được hát do các vị này.
7. Kèm với các buổi cử hành, cần có bầu khí và sự chuẩn bị tâm hồn: vì thế cố tạo bầu khí hồi tâm, cầu nguyện, trước khi cử hành các lễ nghi Tuần thánh. Thói quen nói truyện cho tới lúc cử hành phụng vụ làm cản trở bầu khí cần thiết này.
Để chuẩn bị nội tâm xứng đáng, một việc phải thực hiện, đó là thanh tẩy tâm hồn qua bí tích thống hối và hòa giải. Việc xưng tội là một yếu tố quan trọng để cử hành mầu nhiệm vượt qua, để lãnh nhận dồi dào ơn thánh từ mầu nhiệm này. Bức thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gửi các linh mục trong ngày thứ năm Tuần thánh năm 2001 đã nói về bí tích hòa giải, như là biểu lộ lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Vì thế chính các linh mục phải ý thức điều này, năng lãnh nhận bí tích thống hối và hòa giải, giúp giáo dân ý thức về tội, và các linh mục cũng phải siêng năng ngồi tòa giải tội. Vì thế mỗi tín hữu cần cử hành bí tích này với tất cả ý thức về tầm quan trọng của bí tích, về hiệu lực thanh tẩy tâm hồn khỏi tội, và xưng thú tội tội của mình với linh mục. Và tránh để đến giờ phút chót của ngày thứ bảy tuần thánh.
8. Các buổi cử hành các việc đạo đức bình dân, có ý nghĩa và mục đích riêng của chúng. Tuy nhiên không được lấn át việc cử hành phụng vụ, đặc biệt phụng vụ Tuần thánh. Việc ngắm nguyện, nếu nơi nào còn giữ, cần tổ chức cho hòa hợp với buổi cử hành phụng vụ. Việc ngắm đàng thánh giá cũng thế. Phải khuyến khích tham dự đầy đủ buổi cử hành phụng vụ. Phải có khoảng thời gian thích hợp giữa buổi cử hành phụng vụ và việc đạo đức bình dân như ngắm nguyện, nhất là khi việc ngắm nguyện kéo dài. Như vậy giáo dân có khoảng trống thinh lặng và thanh thản để suy niệm, nghiền ngẫm, cầu nguyện, để tham dự và lãnh hội ơn thánh từ các buổi cử hành phụng vụ và các việc đạo đức bình dân.
III. Một số lưu ý đặc biệt
Sau đây là một số điểm lưu ý đặc biệt liên hệ tới các buổi cử hành trong Tuần thánh và Tam nhật thánh.
1. Chúa nhật lễ lá
Nghi thức của ngày Chúa nhật lễ lá gồm có việc rước kiệu tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể và tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, rồi việc công bố trọng thể bài thương khó của Chúa Giêsu theo thánh Mathêô (năm A), Marcô (năm B) và Luca (năm C), và sau cùng là thánh lễ. Ba nghi thức này nói lên vinh quang của Chúa Kitô và đồng thời chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa. Tất cả cho thấy hành trình của Chúa Kitô trong những ngày cuối cùng cuộc đời Ngài. Ngài được tôn vinh qua thập giá.
Lễ nghi cần có đủ thừa tác vụ, phó tế, nếu có, để cử hành cuộc rước kiệu bình thường, để cầm thánh giá, đèn nến, bình hương và tàu hương, sách lễ ; ba phó tế, hoặc ca viên để công bố bài Thương khó. Nghi thức làm phép lá nên cử hành tại một nơi khác ngoài nhà thờ, để sau đó có thể đi kiệu vào nhà thờ. Các thánh vịnh 23 và 46 nên được chọn hát khi đi kiệu để tôn vinh Chúa chiến thắng. Khi công bố bài Thương khó, không dùng hương, không lời chào ban đầu; được công bố do ba phó tế, hay do hai ca viên và linh mục giữ vai Chúa Giêsu. Không được bỏ giảng sau bài Thương khó.
2. Thánh lễ làm phép và thánh hiến các loại dầu
Thánh lễ làm phép và thánh hiến dầu nói lên biểu hiệu của dầu thánh trong các bí tích rửa tội, thêm sức, truyền chức thánh và xức dầu bệnh nhân, cũng như một số phụ tích như Nghi thức thánh hiến nhà thờ và bàn thờ. Ngoài ra thánh lễ làm phép dầu cũng biểu lộ sự hiệp thông giữa giám mục và linh mục đoàn trong giáo phận. Vì thế các linh mục cố gắng đến đồng tế với giám mục trong thánh lễ này tại nhà thờ chính tòa, ít là các vị có trọng trách đặc biệt trong giáo phận, như các cha quản hạt, cha sở.... Giáo dân cũng được mời gọi tham dự đông đảo hết sức. Vì thế nếu không cử hành thánh lễ dầu vào sáng thứ năm được, thì cử hành vào một ngày nào gần nhất trước thứ năm Tuần thánh, hoặc sau Chúa nhật Phục sinh để có sự tham dự đông đảo hơn từ linh mục và giáo dân.
Tín hữu cũng được giải thích cho biết ý nghĩa các loại dầu thánh dùng để cử hành các bí tích ban ơn cứu rỗi. Dầu cũ được đốt đi và cha sở lấy dầu mới về. Nên có nghi thức để tiếp đón dầu thánh, như một nghi thức vắn tắt tiếp đón dầu thánh tại giáo xứ, trước thánh lễ Tiệc ly chiều thứ năm Tuần thánh. Cũng có thể cử hành vào một thời gian khác với buổi phụng vụ lời Chúa để tôn kính dầu thánh và giúp giáo dân hiểu thêm ý nghĩa các loại dầu thánh. Dầu phải được cất giữ tại một chỗ xứng đáng trong phòng thánh, trong hộc có khóa kỹ và dễ nhận ra khi cần dùng tới.
3. Chiều Thứ năm tuần thánh
Trong thánh lễ Tiệc ly chiều thứ năm Tuần thánh, Giáo Hội cử hành nghi thức rửa chân, thánh lễ tưởng niệm việc Chúa Kitô lập phép Thánh Thể và chức linh mục, cũng như ban bố giới luật mới tức là giới luật yêu thương. Sau cùng có việc kiệu Thánh Thể và chầu Thánh Thể tại nhà nguyện nhỏ cho tới nửa đêm.
Các linh mục ngụ trong giáo xứ, hay ở các cộng đoàn nhỏ của tu sĩ linh mục trong giáo xứ được mời cùng đồng tế trong thánh lễ tưởng niệm bữa tiệc ly này. Trong ngày thứ năm, các linh mục không được làm lễ riêng. Nếu nhu cầu mục vụ thực sự đòi hỏi, Giám mục giáo phận có thể cho phép cử hành một thánh lễ khác, cho những người không thể tham dự lễ chiều được, nhưng không được cho phép làm cho một nhóm mà thôi. Thánh lễ có hát kinh Vinh danh, có kinh “Cùng hiệp thông” riêng (Communicantes), cũng như kinh “Vậy lạy Cha” (Hanc igitur) riêng nếu đọc Kinh nguyện Thánh Thể I. Các thừa tác viên cũng phải có đủ, để giúp lễ và công bố Lời Chúa. Theo truyền thống, các người được chọn để rửa chân là những người đàn ông. Chuông, đàn được dùng cho tới hết kinh Vinh danh. Trước thánh lễ, cần để nhà tạm Mình thánh trống. Liệu đủ bánh lễ để truyền và dùng cho buổi cử hành phụng vụ ngày thứ năm và ngày hôm sau. Nhà tạm để chầu Mình thánh nên dọn đơn sơ, không quá nhiều hoa, nến, nhưng trưng bày có mực độ. Tại nhà nguyện chầu Thánh Thể, cần có sách hát, sách Kinh Thánh để cộng đoàn dùng khi chầu Thánh Thể. Trong các giờ chầu, nên dành giờ để cầu nguyện và suy niệm riêng trong thinh lặng xen kẽ với việc đọc Kinh Thánh, như các chương 13 – 17 của Phúc âm thánh Gioan, hát xen kẽ, đọc kinh. Sau nửa đêm thì hết chầu công cộng. Và chỉ còn chầu riêng mà thôi, cho tới giờ cử hành phụng vụ chiều thứ sáu.
Sau các nghi lễ, thì lột hết các khăn trên bàn thờ. Thánh giá được che bằng một tấm vải đỏ hay tím, nếu trước đó chưa được phủ từ chiều thứ bảy trước Chúa nhật thứ 5 Mùa chay.
Không tổ chức kiệu và đặt Mình thánh Chúa trong các nhà thờ không cử hành Nghi lễ chiều thứ sáu Tuần thánh tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Kitô.
4. Ngày thứ sáu tuần thánh
Tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ và chết trên thánh giá. Vì thế Giáo Hội hồi tâm, thinh lặng ăn chay kiêng thịt để chia sẻ cuộc thương khó của Chúa và như là mở tâm hồn đón nhận ơn cứu rỗi. Nếu có thể thì tại nhà thờ giáo xứ, cha xứ và giáo hữu cũng cử hành Giờ Kinh sách và Kinh sáng chung với nhau tại nhà thờ ; hoặc với giám mục tại nhà thờ chính tòa. Sáng thứ bảy cũng nên cử hành các giờ kinh phụng vụ này.
Chỉ trao Mình Thánh vào buổi cử hành phụng vụ sau trưa. Đối với bệnh nhân, thì có thể kiệu Mình Thánh bất cứ lúc nào. Không cử hành bí tích nào, ngoài bí tích giải tội và xức dầu bệnh nhân. Nếu phải cử hành nghi thức an táng, thì không có hát, đánh đàn, kéo chuông.
Sau trưa vào khoảng 3 giờ, nơi nào có thể, thì cử hành Nghi lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Kitô, nếu không thì cử hành vào giờ thuận tiện sau đó, nhưng không cử hành sau 21 giờ. Nghi lễ này gồm có phụng vụ Lời Chúa mà cao điểm là việc công bố bài thương khó theo thánh Gioan ; sau đó là Lời nguyện chung đại thể, rồi việc tôn kính Thánh giá cách trọng thể, và sau cùng là việc rước lễ với Mình thánh đã được truyền phép hôm trước.
Các phần này được hiểu trong tương quan với nhau, như sau : Lời Chúa và nhất là bài thương khó theo thánh Gioan, cho thấy ý nghĩa cuộc thương khó của Chúa ; sau đó mọi người cầu nguyện cho các hạng người, như là ơn cứu rỗi được thông ban cho mọi người ; tiếp theo Giáo hội biểu lộ lòng tôn kính Đấng cứu thế qua việc tôn kính Thánh giá, và sau cùng, qua việc rước lễ, tín hữu kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô để tôn vinh Chúa Cha.
Cần có đủ các thừa tác viên để công bố bài Thương khó, cử hành nghi thức tôn vinh Thánh giá, kiệu Thánh thể về để rước lễ. Khi kiệu Thánh giá và mở khăn che Thánh giá, linh mục mời mọi người cùng thờ lạy. Nên để giây lát để thờ lạy Thánh Giá trong thinh lặng. Thánh giá để hôn kính phải lớn đủ và nghệ thuật và chỉ dùng một thánh giá mà thôi, để cho thấy ơn cứu rỗi chỉ từ Thánh giá Chúa Kitô mà phát sinh ra. Nếu nhiều người quá, thì dùng một Thánh giá, và sau khi một số người đã hôn kính, linh mục giơ cao lên, nói vài lời và mọi người cúi đầu thờ lạy Thánh giá. Sau Nghi thức, thì lột khăn bàn thờ. Nhưng để Thánh giá với 4 cây nến trên đó. Cũng có thể dọn một nhà nguyện, để tín hữu tiếp tục đến suy niệm, hôn kính Thánh Giá.
Có thể ngắm đàng Thánh Giá, học suy niệm về các sư đau khổ của Mẹ Maria, trong những lúc khác, ngoài Nghi thức phụng vụ ngày thứ sáu Tuần thánh.
5. Ngày thứ bảy tuần thánh
Ngày thứ bảy Tuần Thánh, Giáo Hội ở bên mộ Chúa để suy ngắm cuộc tử nạn của Chúa Kitô, việc Ngài xuống mồ, biểu hiệu tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi của Ngài, và chờ mong Chúa sống lại, qua việc cầu nguyện và ăn chay. Có thể cử hành giờ Kinh sách và Kinh sáng như sáng thứ sáu Tuần thánh.
Hôm nay chỉ cho rước lễ như của ăn đàng mà thôi. Không cử hành lễ cưới và các bí tích khác trừ bí tích giải tội vá xức dầu bệnh nhân.
Trong nhà thờ có thể để cho tín hữu kính viếng ảnh Chúa chịu nạn, ảnh Chúa bị chôn trong mồ, ảnh Đức Mẹ sầu bi.
Chiều đến Giáo Hội cử hành canh thức vọng đón chờ Chúa Kitô sống lại. Đây là buổi Canh thức chính yếu, là mẹ các buổi canh thức khác. Giáo Hội chờ Chúa sống lại và cử hanh các bí tích khai tâm kitô giáo (Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể). Buổi canh thức vọng phục sinh cũng mang tính cách cánh chung, vì Giáo Hội chờ ngày Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Buổi Canh thức vọng phục sinh cử hành vào giờ đêm bắt đầu và phải kết thúc trước hừng đông ngày Chúa nhật. Không được cử hành vào giờ chiều, như vẫn cử hành thánh lễ Chúa nhật vào chiều thứ bảy.
Cơ cấu Canh thức vọng phục sinh gồm có Công bố phục sinh, phụng vụ Lời Chúa, phụng vụ các bí tích khai tâm kitô giáo, và phụng vụ Thánh Thể.
Các dấu hiệu được dùng trong buổi cử hành này, cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh: nến phục sinh phải là một cây nến mới cho mỗi năm, và bằng sáp. Tránh những hình thức giả tạo. Rồi việc làm phép lửa mới, rước nến phục sinh cũng cần thực hiện theo Sách lễ Rôma, thế nào để cho thấy biểu hiệu Chúa Kitô sống lại là ánh sáng trần gian.
Thày phó tế hay một ca viên khác công bố tin mừng phục sinh với sự trang trọng và làm cho mọi người nhận ra ý nghĩa siêu nhiên của đêm canh thức này. Khi một ca viên không phải là pho tế công bố Bài Tin mừng phục sinh, thì không xin phép lành của linh mục chủ sự.
Các bài sách thánh trích từ Cựu ước (7) Tân ước (1) và bài Phúc âm, để giáo huấn tín hữu và dự tòng về biến cố vượt qua của Chúa Kitô, việc cứu rỗi con người, giao ước mới, tạo vật mới, đời sống mới của những người được tái sinh trong Chúa Kitô. Vì lý do mục vụ có thể bớt các bài đọc sách thánh này, nhưng phải đọc ít là 3 bài Cựu ước (sách luật và Ngôn sứ) và hai bài Tân ước, nhưng không bao giờ được bỏ đoạn 14 của sách Xuất hành. Các thánh vịnh đáp ca được chọn để suy niệm các bài sách thánh, vì thế phải hát các thánh vịnh này và không được thay thế bằng các bài hát khác. Các linh mục có thể nói mấy lời dẫn giải trước các bài sách thánh, nhưng không nên quá dài dòng, thay thế cho chính lời Chúa. Sau các bài đọc cựu ước, tới Kinh Vinh danh. Có thể kéo chuông nếu có tục lệ này.
Phần thứ ba của Nghi lễ canh thức vọng phục sinh là cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo. Nếu không có dự tòng là người lớn, thì ít ra có việc rửa tội cho trẻ con. Trước khi làm phép rửa tội, linh mục làm phép nước để dùng rửa tội và rảy trên giáo hữu trong đêm vọng này và trong cả Mùa phục sinh. Nếu không có nghi lễ rửa tội, thì cũng có thể làm phép nước, rồi rảy nước thánh cho tín hữu cùng với việc tuyên lại lời hứa rửa tội. Khi tuyên lại các lời hứa rửa tội, mọi người đứng, cầm nến cháy và trả lời các câu hỏi của linh mục. Sau đó linh mục rảy nước thánh trên cộng đoàn.
Thánh lễ cử hành cách trang nghiêm, sốt sắng và không vội vã, sợ rằng buổi lễ kéo dài quá. Việc rước lễ có ý nghĩa đặc biệt trong canh thức vọng phục sinh vì để tín hữu kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô và sự sống lại của Ngài.
6. Chúa nhật phục sinh
Chúa nhật phục sinh là đại lễ và phải cử hành hết sức trọng thể. Nên cử hành việc rảy nước thánh thay cho nghi thức thống hối đầu lễ. Chiều Chúa nhật phục sinh, có thể hát Kinh chiều kính nhớ bí tích rửa tội, trong đó, khi hát các thánh vịnh, có cuộc rước kiệu xuống giếng nước rửa tội. Các tân tòng được mời tham dự buổi Kinh chiều này và tham dự các thánh lễ trong cả tuần Bát nhật Phục sinh. Thời xưa, đây là thời kỳ các tân tòng được giải thích cho hiểu về các mầu nhiệm trong đạo, nên gọi là thời kỳ nhiệm huấn. Nến Phục sinh được đặt gần bàn thờ hay gần Tòa công bố Lời Chúa và được đốt lên trong thánh lễ, kinh sáng và kinh chiều của các lễ lớn suốt Mùa phục sinh. Sau giờ Kinh chiều II Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, nến phục sinh được đặt tại Giếng rửa tội, và được đốt lên khi cử hành bí tích rửa rội, đặt bên quan tài người chết trong thánh lễ an táng. Ngoài hai dịp này, không đốt nến phục sinh vào các buổi lễ khác và không để ở gian cung thánh hay trong phòng thánh, để cho thấy ý nghĩa riêng biệt của biểu tượng này trong Mùa Phục sinh.
Tôi vừa ghi lại một số điểm liên hệ tới ý nghĩa Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh, việc cử hành Tuần quan trọng này và một số những điểm chử đỏ đặc biệt. Tôi không muốn ghi lại hết các điểm chữ đỏ. Những điều khác xin đọc trong Sách lễ Rôma, Bản văn các Quy luật tổng quát về Năm phụng vụ, Thư của Bộ Phụng tự về việc chuẩn bị và cử hành Lễ Phục sinh và Mùa phục sinh (ngày 16 tháng giêng năm 1988), hoặc Lịch phụng vụ công giáo Việt Nam. Xin cầu chúc tất cả Tuần Thánh sốt sắng và Lễ Phục sinh tràn đầy ơn sủng của Chúa sống lại.
Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả