www.langminhnews.net

Tuần 15 - Sách Dân Số chương 1 – 12

I. TỔNG QUÁT
Cuốn sách thứ tư trong bộ Ngũ Thư được gọi là sách Dân Số vì trong đó kể lại hai lần kiểm tra dân số của các chi tộc Israel (1,20-46 và 26,5-51) và chi tộc Lêvi (3,14-51 và 26,57-62). Trong sách còn có những danh sách khác được tính bằng số, chẳng hạn danh sách các nhân viên kiểm tra (1,5-15), danh sách các lễ vật cung hiến bàn thờ (7,10-83), danh sách những người đi dò thám đất Canaan (13,4-15), danh sách các lễ vật được dùng trong những ngày lễ (28,1 – 29,38). Dù vậy, đây không phải là nội dung chính của sách Dân Số.

Câu chuyện trong sách Dân Số bắt đầu từ sa mạc Sinai ngay sau khi ký kết giao ước, và kéo dài 40 năm cho đến lúc dân chuẩn bị vào Đất Hứa. Đó là câu chuyện của Dân Chúa trong hành trình sa mạc dưới sự lãnh đạo của Môsê và Aaron. Chủ đề trung tâm của sách là sự hiện diện của Đức Chúa với dân Người trong hành trình sa mạc. Chính Chúa cùng đi với dân và hướng dẫn họ. Về phần dân, họ thường xuyên kêu la trách móc khiến Chúa nổi giận, rồi lại xin Chúa tha thứ.

Cần phải nhìn sách Dân Số như một giai đoạn trong cả câu chuyện dài như thế, bắt đầu từ sách Sáng Thế với công trình tạo dựng, rồi tiếp nối với công trình giải thoát và tuyển chọn Dân Chúa trong sách Xuất Hành, và sau đó là hành trình sa mạc tiến về Đất Hứa.

II. LỜI KHẤN NADIA (6,1-21)

Trước hết cần đặt bản văn này trong bối cảnh Dân Chúa chuẩn bị vào Đất Hứa. Trong bối cảnh đó, sách Dân Số nhấn mạnh đến sự thánh thiện và thanh khiết của cộng đoàn đức tin. Do đó, tác giả lồng vào đây bản văn về lời khấn nadia, tức là nói đến sự thánh hiến, sự tận hiến hoàn toàn của những cá nhân cho Chúa. Người khấn nadia dâng mình cho Đức Chúa (câu 21) trong một thời gian (câu 4,5,6,8,12,13). Truyền thống giữ lời khấn này còn được duy trì rất lâu trong dân Chúa, ví dụ trường hợp Samson (Tp 13,5) và Samuel (1Sam 1,11). Truyền thống này vẫn được tiếp tục đến thời thánh Gioan Tẩy giả (Lc 1,15) và thánh Phaolô (Cv 18,18; 21,23-26).

Bản văn về lời khấn nadia (6,1-21) gồm ba đoạn độc lập: các câu 3-8 mô tả những điều kiện và lề luật người khấn nadia phải giữ, các câu 9-12 nói đến việc thanh tẩy trong trường hợp bị ô uế, và các câu 13-21 đưa vào nghi thức cử hành khi thời gian khấn chấm dứt. Ở đây ta chỉ tập trung vào đoạn 1 (6,3-8), theo đó người khấn nadia phải tuân giữ ba điều liên quan đến ăn uống, cắt tóc và tránh xác chết.

Người khấn nadia phải kiêng rượu và men nồng, “không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô” (câu 3-4). Rượu nho tượng trưng cho văn hoá thành thị, đời sống ổn định tiện nghi với mức sống cao, tức là những khoái lạc ngược với lối sống thanh đạm (Amos 4,1; 6,6). Kế đó, “dao cạo không được đụng đến đầu… phải để cho tóc mọc tự nhiên” (câu 5) vì tóc được coi là dấu chỉ của sự thánh hiến, dấu chỉ phân biệt người dâng mình cho Chúa. Ở đây nên nhớ đến câu truyện về Samson bị cạo đầu và mất sức mạnh. Người khấn nadia còn “không được tới gần xác chết… kể cả cha mẹ hay anh chị em qua đời” (câu 6-7). Thời xưa người ta tin rằng có mối liên hệ mật thiết giữa chết chóc và sự ác. Sự ác phát xuất từ xác chết và làm cho bất cứ ai chạm đến xác chết bị ô uế, do đó không xứng đáng với Thiên Chúa.

Sự hiện diện của những người khấn nadia là lời nhắc nhớ thường xuyên cho tất cả cộng đồng rằng họ phải hiến dâng chính mình cho Chúa như thế nào. Cũng vì thế, có nhiều người khó chịu về sự hiện diện đó và tìm cách gài bẫy họ như Amos nhắc tới, “Các ngươi đã bắt các nadia uống rượu, và ra lệnh cho các tiên tri: các ông không được nói tiên tri” (Amos 2,12).

Những ghi nhận về lời khấn nadia khiến ta liên tưởng đến những người sống đời thánh hiến ngày nay, những anh chị em sống theo ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh, và vâng phục. Sự hiện diện của người sống đời thánh hiến là lời nhắc nhớ cho tất cả cộng đoàn Hội Thánh rằng chính Thiên Chúa và Nước Trời mới là kho tàng quý giá nhất mà ta phải kiếm tìm, là nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu, và phụng sự Chúa chính là đường dẫn đến tự do đích thực. Đồng thời sự hiện diện của những người sống đời thánh hiến cũng là dấu chỉ phản kháng lối sống duy vật và hưởng thụ, và mời gọi con người tìm lại những giá trị tinh thần cao quý, gắn liền với phẩm giá con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

III. CỘT MÂY (9,15-23)

Trong Thánh Kinh, mây là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Mây đã dẫn dân ra khỏi Ai Cập (Xh 13,21-22) và che giấu họ khi quân Ai Cập tới gần (Xh 14,19.24). Mây cũng dẫn đường cho dân trong suốt hành trình sa mạc. Mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, và ban đêm trông như lửa (9,15-16).

Với hình tượng cột mây như dấu chỉ hiện diện của Chúa, sách Dân Số nhấn mạnh sự hiện diện của Chúa trong hành trình sa mạc, đồng thời nhấn mạnh hai điều. Một là chính cột mây quyết định dân sẽ dừng lại hay đi tiếp (câu 19-22); như thế, việc lên đường hay dừng lại không do dân quyết định mà là do Chúa. Kế đến, Đức Chúa nói với dân qua đám mây. Qua đám mây, họ nhận ra lệnh của Đức Chúa (câu 18,19,23) và làm theo.

Sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu bước vào hành trình dài tiến về Nước Trời. Trong hành trình đó, ta không đi một mình nhưng chính Chúa đồng hành với ta như Người đã đồng hành với dân Israel trong sa mạc. Sự hiện diện và đồng hành của Chúa được thể hiện qua nhiều dấu chỉ. Liệu ta có đủ tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ đó không, và ta đáp trả những dấu chỉ đó như thế nào?

Nguồn: tgpsaigon.net

www.langminhnews.net

About www.langminhnews.net

Author Description here.. Nulla sagittis convallis. Curabitur consequat. Quisque metus enim, venenatis fermentum, mollis in, porta et, nibh. Duis vulputate elit in elit. Mauris dictum libero id justo.

Subscribe to this Blog via Email :