THỨ HAI TUẦN 18 TN: Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Tin Mừng (Mt 14, 22-36)
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong,
Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa” và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến”. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!”
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục, bổn mạng các cha sở(1786 – 1859)
Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786, tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798, Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799, Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Môi Côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm 1800, thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ, Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, ở họ đạo Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau, Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy, Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng, một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : – “Đây là một họ đạo nhỏ bé, nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ.”
Ngày 9 tháng 2 năm 1818, cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ đã coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần Ngài rơi nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện: – “Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con… Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.”
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo… Vui cười, Ngài nói: – “Tôi không hề mất áo choàng bao giờ.” Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa, thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa Nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động, Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn, cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng. Đêm thứ bảy, cha học và tập giảng cho hôm sau. Lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: – “Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.”
- “Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.”
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bệnh: – “Con đau đớn lắm không?”
Cậu bé trả lời: – “Hôm qua, con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại: – “Vậy con muốn được lành bệnh không?”
Cậu bé trả lời: – “Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.”
Chống lại tật làm việc xác, cha nói: – “Ngày Chúa Nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa Nhật và lấy của kẻ khác.”
Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ đạo có bảy quán rượu, cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi Tòa Giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái… đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói: – “Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.”
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này, khi qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện Thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói: – “Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào.” Cúi mặt, người du khách liền vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha nói: – “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…” Thế là cha đã biết nỗi lo âu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: – “Nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.”
Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: – “Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn.”
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859, cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện. – “Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.”
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tuyên hiển thánh. Và năm 1925, Ngài được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
CHẠM ĐẾN THẦY
Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi. (Mt 14,36)
Suy niệm: Mọi năng lượng được chuyển giao và tiếp nhận đều diễn ra qua một sự tiếp cận, tiếp xúc một cách nào đó với nguồn năng lượng. Năng lực cứu độ của Chúa Giê-su đã được thực hiện qua việc Ngài cho phép con người chạm đến Ngài và ở lại trong Ngài. “Dân chúng, tất cả những kẻ đau ốm nài xin Người chỉ cho họ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi”. Phê-rô đã thật sự “chạm” đến Thầy khi khẩn cầu: “Nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy,” và Thầy đã truyền cho ông sức mạnh siêu nhiên giúp ông vượt lên trên tự nhiên, bước đi trên mặt biển. Tuy nhiên, chỉ khi ở lại trong Ngài, trong sức mạnh cứu độ của Ngài, với một niềm tin mạnh mẽ, tín thác nơi Ngài, ta mới hoàn toàn được biến đổi.
Mời Bạn: “Chạm” đến Chúa để được chữa lành, ở lại trong Chúa để được thật sự thay đổi. Nơi nào trong tâm hồn bạn đang bị thương tổn, yếu đuối nào nơi bạn cần được Chúa chạm vào để chữa trị? Bạn phải tín thác vào Chúa trong những lãnh vực nào để sức mạnh và quyền năng của Ngài thể hiện ra trong cuộc đời của bạn?
Chia sẻ: Chia sẻ cảm nghiệm về một lần bạn được sức mạnh chữa lành của Ngài chạm đến và thay đổi đời bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ khẩn cầu Chúa đến cứu giúp, nâng đỡ mỗi khi gặp nguy hiểm, cám dỗ, thử thách.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con xin phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng và quyền năng cứu độ của Chúa. Xin giúp con đứng vững, không chao đảo giữa bao sóng gió cuộc đời, nhờ “chạm” đến Chúa và ở lại trong Chúa. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Sống đức tin trong thời đại hôm nay cũng khó khăn tựa như đi trên mặt biển. Có biết bao cám dỗ khiến chúng con xa lìa Chúa. Có biết bao những sóng gió khiến chúng con đánh mất niềm tin nơi Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ niềm tin còn yếu kém của chúng con để dầu đứng giữa những nghi nan của dòng đời, những sóng gió cuộc đời, chúng con vẫn luôn đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Xin giúp chúng con biết noi gương thánh Phê-rô mà thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con”.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn ở bên chúng con. Chúng con tin tưởng Chúa luôn bảo vệ chúng con. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng con. Vì chim trời, hoa huệ ngoài đồng chẳng là gì so với con người mà Chúa còn quan tâm chăm sóc. Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa dù gặp những gian nan. Xin cho chúng con biết nương tựa vào Chúa trong những lúc khó khăn và nguy hiểm của dòng đời.
Lạy Chúa, Chúa là sức mạnh và là thành luỹ bảo vệ đời chúng con. Xin cho chúng con biết tin tưởng và an vui nép mình bên Chúa. Amen.
THỨ BA TUẦN 18 TN: Cung hiến thánh đường Đức Ma-ri-a
Tin Mừng (Mt 15,1-2.10-14)
1 Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng : 2 “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa ?” 10 Sau đó, Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo : “Hãy nghe và hiểu cho rõ : 11 Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.”
12 Bấy giờ các môn đệ đến gần Đức Giê-su mà thưa rằng : “Thầy có biết không ? Những người Pha-ri-sêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy.” 13 Đức Giê-su đáp : “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố.”
Lễ cung hiến thánh đường Đức Bà cả
Thánh đường Đức Maria được xây cất vào thế kỷ thứ 4 dưới thời Đức Giáo Hoàng Libêriô. Truyện kể rằng chính Đức Mẹ đã chọn nơi này để người ta xây ngôi thánh đường tôn kính Mẹ. Mẹ đã thân hiện ra với đôi vợ chồng sở hữu mảnh đất cũng như với Đức Giáo Hoàng, bảo họ rằng khoảng đất trên ngọn đồi được bao phủ đầy tuyết kia chính là nơi Đức Mẹ đã chọn. Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng 5 tháng Tám, một thời điểm rất nóng trong năm ở Rôma, có một lớp tuyết bao phủ ngọn đồi Esquiline. Đôi vợ chồng đã xin dâng phần đất cũng như tiền bạc cần thiết để xây ngôi thánh đường như là món quà dâng kính Đức Mẹ.
Thoạt tiên, ngôi thánh đường này mang tên là Vương cung thánh đường Libêriô, theo tên của Đức Giáo Hoàng Libêriô. Nó cũng được gọi là thánh đường Đức Mẹ Xuống Tuyết để nhắc nhớ sự kiện Đức Mẹ đã chỉ cho biết mảnh đất dành cho việc xây cất. Sau đó, ngôi thánh đường được Đức Thánh Cha Sixtô III cung hiến cho Đức Maria sau khi Công đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ngôi thánh đường chính là một nhắc nhở tuyệt đẹp về tình yêu và lòng tôn kính mà Giáo hội dành tặng cho Mẹ Thiên Chúa. Danh xưng “cả” được thêm vào danh hiệu “thánh đường Đức Bà” bởi vì đây là ngôi thánh đường đầu tiên được xây cất ở Tây phương để tôn kính Đức Mẹ.
Bên trong thánh đường có máng cỏ Bêlem nơi Đức Maria đã đưa nôi Chúa Hài Nhi Giêsu. Điều này biểu lộ lòng tôn kính ngày Chúa giáng sinh, với hình Chúa Hài Nhi nhỏ bằng bạc đang nằm trong máng cỏ.
Ðền Ðức Bà Cả là một trong bốn thánh đường ở Rôma nổi tiếng là các thánh đường chính được xây cất để kính nhớ các trung tâm đầu tiên của Giáo Hội:
- Ðền thánh Gioan Latêranô: tượng trưng cho ngai toà Thánh Phêrô, Toà Rôma
- Ðền thánh Phaolô Ngoại Thành: toà Alexandria, nghe nói do Thánh Máccô đứng đầu
- Ðền thánh Phêrô: tòa Constantinople
- Ðền Ðức Bà Cả: tòa Antiôkia, là nơi người ta cho rằng Ðức Maria sống ở đây lâu nhất.
Ô UẾ VÀ TINH SẠCH
“Không phải cái vào miệng làm con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra…” (Mt 15,11)
Suy niệm: Ô uế là một ý niệm chìa khóa trong Thánh Kinh. Nó gắn liền với cảm thức về sự thánh thiện, tinh tuyền của Thiên Chúa. Người hay vật ô uế thì bất xứng với Thiên Chúa, và cần phải được thanh tẩy. Nhưng chẳng biết từ lúc nào, ý niệm này được hiểu một cách máy móc, hoàn toàn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài. Dần dần người ta chỉ lo làm hay tránh những điều hoàn toàn bên ngoài, để khỏi ô uế, mà không hề quan tâm đến sự trong sạch trong tâm hồn mình. Ý niệm về ô uế hay tinh sạch cũng dần co lại nơi chính nó, và đặc tính tương quan (với Thiên Chúa) không còn được thấy rõ nữa.
Chính trong bối cảnh này mà Đức Giê-su đã bày tỏ quan điểm của Ngài. Ngài chuyển tiêu điểm của ô uế hay tinh sạch vào bên trong. Và Ngài giới thiệu một vị Thiên Chúa thấu suốt tâm can người ta và quan tâm trước hết đến những gì ở trong đáy lòng ấy: “Không phải cái và miệng làm con người ra ô uế, nhưng chính là cái từ miệng xuất ra”!
Mời Bạn: Chúng ta quan tâm đến sự sạch sẽ của thực phẩm, y phục, nhà cửa, môi trường. Chúng ta chống lại mọi hành động gây ô nhiễm nguồn nước, bầu không khí, v.v… Nhưng còn tư tưởng, tâm hồn của chúng ta thì sao? Ta đi xưng tội để được Chúa tha thứ; nhưng bí tích Sám hối này có được ta cử hành thực sự từ trong tâm hồn, chứ không qua loa, máy móc không?
Sống Lời Chúa: Thành tâm đặt mình trước mặt Chúa và kiểm điểm cuộc sống của mình.
Cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy…”.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là tấm bánh dưỡng nuôi cuộc đời chúng con. Đây là ân phúc vượt lên mọi điều chúng con mong ước. Chúng con chỉ cần của ăn mau hư nát, nhưng Chúa lại cho chúng con sự sống đời đời là chính Thánh Thể Chúa. Chúng con chỉ cầu Chúa ban cho chúng con lương thực hằng ngày, thế mà Chúa lại cho chính Chúa làm gia nghiệp cuộc đời chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con cũng trở thành tấm bánh để hoà tan trong anh em. Xin giúp chúng con luôn trở thành người hữu ích cho cộng đoàn bằng đời sống yêu thương và phục vụ vì lợi ích của tha nhân.
Lạy Chúa, ngày nay người ta không chỉ đói cơm ăn, thiếu áo mặc mà còn cần sự cảm thông và chia sẻ, cần tình thương mến và rất cần những cử chỉ quan tâm chăm sóc của tha nhân. Nhưng Chúa ơi! Sao chúng con quá ích kỷ với nhau. Chúng con thường có thái độ bàng quan, dửng dưng trước những bất hạnh của tha nhân. Chúng con cũng còn thiếu cả trách nhiệm với gia đình, đôi khi vì lười biếng mà chúng con đã chồng chất gánh nặng lên vai cha mẹ và anh em. Chúng con thiếu mau mắn chia sẽ trách nhiệm với gia đình. Chúng con ngại đưa tay giúp đỡ thi ân. Chúng con chần chờ khi phải đến viếng thăm nhau. Chúng con thường tìm vui thú cho bản thân hơn là lo lắng phục vụ cho lợi ích cộng đoàn. Chúng con đã không dùng tài năng Chúa ban để phục vu cộng đoàn nhưng chỉ lo thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Xin Chúa tha thứ cho những thiết sót của chúng con.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, xin cho cuộc đời chúng con cũng là tấm bánh làm vui lòng mọi người qua sự chia sẻ trong yêu thương và phục vụ của chúng con. Amen.
THỨ TƯ TUẦN 18 TN: Chúa Hiển Dung
Tin Mừng (Mt 17, 1-9)
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây ông Môsê và Êlia hiện ra và đàm đạo với Người.
Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Lễ Chúa Hiển Dung
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều đề cập đến biến cố Hiển Dung (Mátthêu 17,1-8; Máccô 9,2-9; Luca 9,28-36). Với một sự tương đồng đáng chú ý, cả ba đều kể lại biến cố này sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thế và sau lần đầu tiên Chúa Giêsu nói về sự thống khổ và cái chết của Người. Sự hăng hái của Phêrô trong việc dựng lều nơi hiển dung đưa ra giả sử rằng, biến cố đó xảy ra trong dịp Lễ Lều kéo dài một tuần lễ trong mùa thu.
Tabor là ngọn núi cao nhất miền Galilêa. Từ trên đỉnh ta có thể nhìn thấy một khung cảnh bao quát. Chính tại đây, Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt ba môn đệ là những người sẽ được chứng kiến cơn hấp hối của Ngài sau này trong vườn cây Dầu.
Mặc dù cả ba văn bản đều rất giống nhau, theo các học giả Thánh Kinh, thật khó để diễn lại cảm nghiệm của các tông đồ, vì các Phúc Âm dựa rất nhiều vào Cựu Ước trong đoạn diễn tả cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa ở núi Sinai và những điều tiên tri về Con Người. Chắc chắn là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã thoáng được nhìn thấy thiên tính của Chúa Giêsu, nhưng ấn tượng ấy đủ mạnh để tạo nên sự sợ hãi in sâu trong tâm hồn họ.
Phúc Âm đã kể lại: “Quần áo Ngài trở nên rực sáng và trắng đẹp đến nỗi không một thợ giặt nào ở thế gian làm được như vậy. Rồi Elia và Môsê hiện ra nói chuyện với Ngài. Bấy giờ Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, ở đây tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều: Thầy một, Elia một và Môsê một”. Phêrô không rõ mình nói gì vì cả ba đều kinh sợ. Kế đến có một đám mây che phủ các Ðấng ấy và nghe thấy tiếng từ đám mây phán ra: “Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.
Một cảm nghiệm như vậy không thể nào diễn tả được, do đó các ngài dùng cách diễn đạt thông thường trong kinh sách để diễn tả. Và tất nhiên, Chúa Giêsu đã cảnh cáo cho họ biết, sự vinh hiển và sự thống khổ của Người liên hệ với nhau một cách chặt chẽ – đó là chủ đề mà Gioan lập đi lập lại trong Phúc Âm của ngài.
Sự biến hình, một lần nữa lại minh xác với chúng ta rằng: Ðức Kitô chính là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, đồng thời cho chúng ta thấy trước được hình ảnh sự sống lại vinh hiển của Ðấng Cứu Thế, và sự sống lại của những người công chính trong ngày sau hết.
Truyền thống coi núi Tabor là nơi hiển dung. Ðầu tiên, trong thế kỷ thứ tư một nhà thờ được dựng nên ở nơi đây để cung hiến cho biến cố này vào ngày 6 tháng Tám. Một ngày lễ để tôn kính sự Hiển Dung được Giáo Hội Ðông Phương cử hành mừng bắt đầu từ khoảng thời gian đó. Sự mừng kính của một vài Giáo Hội Tây Phương bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám.
Vào ngày 22 tháng Bảy năm 1456, Thập Tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Belgrade. Tin tức về cuộc chiến thắng được đưa về Rôma vào ngày 6 tháng Tám, và vào năm sau, Ðức Thánh Cha Callistus III đã đưa ngày lễ này vào niên lịch phụng vụ của Rôma.
CHÂN DUNG ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA
“Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mt 17,9)
Suy niệm: Thầy Giê-su không muốn ba môn đệ thân tín mô tả chân dung sáng chói của mình trong biến cố “hiển dung,” vì sợ người ta hiểu sai về Đấng Cứu Thế. Ngài muốn các ông và cả chúng ta nữa diễn tả hình ảnh đúng về Ngài: một Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh trên thập giá. Niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh vinh hiển luôn bao hàm rằng Đấng Ki-tô ấy chịu treo đau khổ trên thập giá. Thập giá là phương thế Thiên Chúa Cha đã hoạch định cho Đức Ki-tô cứu độ nhân loại, và đó cũng là con đường dẫn đến Ngài đến phục sinh vinh quang. Khi nắm vững sự thật này, ta sẽ vui mừng đón nhận thập giá của Đức Giê-su, không còn trông mong một Đấng Thiên Sai trần tục theo kiểu quan niệm của người Do Thái xưa.
Mời Bạn: Bạn đang mang trong mình hình ảnh của Đấng Phục Sinh, hình ảnh ấy phải được tỏ rạng trong cuộc sống hằng ngày của bạn qua thái độ tin tưởng, phó thác vào Chúa trước những thử thách, lạc quan trong mọi biến cố cuộc sống, âm thầm làm chứng cho những giá trị Nước Trời… vì tin rằng sự sống đời đời của Đấng Phục Sinh đã nở hoa ngay trong cuộc sống hôm nay.
Sống Lời Chúa: Nhờ xác tín giá trị của thập giá Đức Ki-tô, tôi sẽ vui lòng đón nhận những hy sinh, thiệt thòi khi sống những đòi hỏi của người môn đệ Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa ban cho con sự sống mới, con xin cảm tạ Chúa. Xin cho con biết kết hiệp với Chúa trong mọi sự, để con trở nên hình ảnh sinh động của Đấng Phục Sinh trong con. Amen.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!
Chúng con yêu mến và ngợi khen Chúa. Vì Chúa đã quá yêu thương chúng con. Dù rằng chúng con chỉ là một tạo vật nhỏ bé và đầy lỗi lẫm. Chúa vẫn chăm sóc cuộc đời chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa hoà nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa chấp nhận tan biến mình, để chúng con được sống sức sống của Chúa. Xin cho chúng con biết sống sao cho xứng với tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Nhưng Chúa ơi! ở đời sự giàu sang, danh vọng và khoái lạc trần thế là những điều hấp dẫn chúng con, trói buộc chúng con, làm cho chúng con đui mù không nhìn thấy những giá trị vĩnh cửu ở trên trời. Chúng con đã hành động theo những đam mê mù quáng. Chúng con đã lao vào thói hư tật xấu vì chiều theo tính xác thịt. Xin Chúa giải thoát và tháo gỡ chúng con khỏi mọi sự u mê của trần thế, để chúng con nhìn thấy những sự phong phú và vĩnh cửu ở trên trời, để chúng con luôn nỗ lực tìm kiếm Chúa và biết khôn ngoan chọn Chúa là nguồn hạnh phúc của cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, giữa những thói đời đầy đam mê thấp hèn, xin giúp chúng con đứng vững trước những cám dỗ tội lỗi và trung tín trong ơn nghĩa với Chúa luôn. Amen.
THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN: Th. Xít-tô II, giáo hoàng và các bạn tử đạo
Tin Mừng (Mt 16, 13-23)
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
THÁNH XÍT-TÔ 2 GIÁO HOÀNG VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
Gương Thánh nhân
Thánh Xít-tô lên ngôi Giáo Hoàng năm 257, giữa lúc Hội thánh đang gặp cơn bắt bớ dữ dằn, thời hoàng đế Va-lê-ri-a-nô, nên đã bị giết chết vì đạo cùng với một số các phó tế của ngài, như lời thánh Cýp-ri-a-nô thuật lại sau đây:
“Sự thật là hoàng đế đã gởi lên Thượng viện một sắc lệnh truyền xử tử tức khắc các Giám mục, Linh mục và phó tế; còn đối với nghị viên, công chức cao cấp và kỵ binh Rô-ma thì phải bốc lột hết chức tước, tịch thu tài sản và nếu mất hết tài sản rồi mà họ vẫn cố chấp giữ đạo thì phải trảm quyết liền; phần các bậc mệnh phụ thì tước đoạt tài sản xong sẽ cho họ đi đày; mọi công chức của triều đình, trước đây xưng mình là tín hữu hay bây giờ vẫn còn xưng như thế, thì cũng phải tịch thu tài sản, rồi lập danh sách và trói lại, điệu đến các nơi hoàng triều cương thổ.
“Hoàng đế Va-lê-ri-a-nô còn cho kèm theo sắc lệnh trên, một phó bản bức thư ông gởi đến cho các quan Tổng đốc về chúng tôi. Ngày nay chúng tôi cũng chờ bức thư đó tới, vì chúng tôi đã nhất định đứng vững trong đức tin, sẵn sàng chịu đau khổ và trông đợi lòng Chúa thương xót ban cho được triều thiên sự sống đời đời; quý huynh cũng nên biết rằng Đức Xít-tô đã bị xử nơi một nghĩa địa ngày 6 tháng 8 cùng với 4 phó tế. Hằng ngày ở Rô-ma, quan vẫn tiến hành các cuộc bách hại như vậy: hễ thấy điệu ai tới là họ xử tử liền, và tịch thu tài sản để cho vào công khố”.
Thánh nhân bị chém đầu cùng với 4 vị phó tế trong số 7 vị phó tế của ngài, đang lúc ngài dâng Thánh lễ trong một hang toại đạo tại nghĩa trang. Hôm đó là ngày 6 tháng 8 năm 258, trong lúc thánh nhân dâng lễ có đông giáo hữu tham dự, cảnh sát Rô-ma đột ngột xông vào. Ngài tự hiến mình cho họ chém đầu, để giáo dân tẩu thoát. Ngài hy sinh chịu chết để cho đoàn chiên khỏi bị bắt bớ giam cầm, do đó mà mọi người đều tôn kính mến yêu ngài hết lòng. Ngài nêu gương can đảm làm chứng cho Chúa, coi cái chết như cỏ rác, trọng phần phúc thiên đàng hơn cả mạng sống và chức tước danh vọng.
Quyết tâm
Noi gương thánh Giáo Hoàng Xít-tô thứ 2; quý trọng phần phúc thiên đàng hơn tất cả mọi sự ở đời, và sẵn sàng hy sinh chịu khó hết sức để được ơn phước đó.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban thánh Xít-tô và các bạn thí mạng sống mình, để trọn niềm trung thành với Lời Chúa và làm chứng cho Đức Giê-su.
Xin dùng quyền năng của Thánh Thần giúp chúng con biết sẵn sàng đón nhận chân lý và can đảm tuyên xưng đức tin.
KHẲNG ĐỊNH LỜI TUYÊN XƯNG
“Người ta nói Con Người là ai? ”… “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” (Mt 16,13.15)
Suy niệm: Thành Xê-da-rê Phi-líp-phê ở thượng nguồn sông Gio-đan, dưới chân núi Khe-môn, cách hồ Ga-li-lê 50 cây số. Đây là miền đất ngoại giáo, thờ nhiều vị thần, kể cả hoàng đế Rô-ma; ngày nay vẫn còn dấu tích đền thờ các vị thần, nói nôm na, nơi đây là “siêu thị tôn giáo.” Chính trong bối cảnh này, Đức Giêsu làm một cuộc “thăm dò dư luận” với các môn đệ: “Người ta nóiCon Người là ai?” – “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Cuộc thăm dò đi từ việc tường thuật lời “người ta nói” sang việc khẳng định chính kiến “còn anh em, anh em bảo”. Câu trả lời của các môn đệ không còn chung chung nữa, nhưng phải là một sự xác định mang tính cá vị trong tương quan với Đức Giêsu và mặc khải của Chúa Cha (c. 17), nghĩa là tin vào Thiên Chúa duy nhất và vào Đấng Cứu Thế duy nhất là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Mời Bạn: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”Trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu ở nhà thờ hay trong giờ học giáo lý thì thật dễ dàng, nhưng không dễ trong cuộc sống, phải không bạn? Nhất là khi quanh bạn đang có nhiều thứ “thần” khác mà lắm khi được cho là quan trọng hơn cả Chúa: tiền bạc, danh vọng, những đam mê bất chính, sự ích kỷ… Ngày hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi bạn câu hỏi quan trọng đó, bạn sẽ trả lời Ngài thế nào?
Sống Lời Chúa: Chậm rãi lặp đi lặp lại lời tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con tuyên xưng Chúa là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Xin giúp chúng con sống niềm tin này. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Cuộc đời luôn có những sóng gió nghi nan. Dòng đời luôn đong đầy những gian truân vất vả. Thế nhưng, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa trợ giúp trong những lúc khó khăn. Chúng con có Chúa đồng hành và sẵn lòng cất nhẹ những gánh nặng trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Thánh Thể để được ơn nâng đỡ phần hồn và phần xác. Xin cho chúng con biết trao vào tay Chúa những gánh nặng trong cuộc đời, những thử thách trong hiện tại và lo lắng cho tương lại.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, thánh Phê-rô hôm nay đã tuyên xưng Chúa là Đấng hằng sống, dù rằng ngày mai ông lại chối Chúa đến ba lần. Chúa biết Phê-rô sẽ gục ngã trước nghi nan dù rằng lòng ông không muốn thế. Chúa nhìn thấu suốt tâm can. Chúa biết tấm lòng chân thật của thánh nhân. Xin Chúa cũng nhìn đến lòng thành của chúng con. Chúng con vẫn tuyên xưng mình là người ky-tô giáo nhưng lại không sống điều chúng con tin. Chúa bảo chúng con yêu người nhưng chúng con vẫn còn ghét bỏ nhau. Chúa bảo chúng sống công bình nhưng chúng con vẫn để cho những danh lợi thú làm chủ con người chúng con. Chúa muốn chúng con vác thập già mà theo Chúa nhưng chúng con lại sợ nghi nan.
Lạy Chúa, xin nâng đỡ đức tin còn yếu kém của chúng con để dù giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống, chúng con luôn kiên vững và an vui trong bổn phận của mình. Amen.
THỨ SÁU TUẦN 18 TN: Th. Đa-minh, linh mục
Tin Mừng (Mt 16, 24-28)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? “Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người”.
THÁNH ĐA-MINH, Linh Mục
Gương Thánh nhân
Thánh Đa-minh sinh tại Cát-tin, nước Tây-ban-nha, năm 1170.
Ngay lúc nhỏ, thánh nhân đã mến mộ học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để đọc kinh cầu nguyện, và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:
- Tôi không còn tiền, nhưng nầy chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.
Người nầy không thể chấp nhận đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gởi đến thụ giáo với một Linh mục ở Gu-mi-en. Năm 14 tuổi, ngài gia nhập đại chủng viện tại Pa-len-ci-a. Sau khi hoàn tất việc học ngài được Đức Cha Đi-gê-ô truyền chức Linh mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám mục đặt ngài làm Kinh sĩ ở Ốt-ma.
Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được dẫn theo. Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn tai hại do bè rối An-bi-ro (Albigeois) gây ra cho Hội thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa; muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy không thể một mình đương đầu nổi với sức bành trướng của họ ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác, đó là những người sau nầy trở nên tu sĩ hội dòng ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của Ngài kể lại:
“Đa-minh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và của ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của ngài.
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin mừng, cả trong lời nói và hành động…
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt nầy, là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta; ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nếu tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Giảng Thuyết”.
Suốt 6 năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Ma-ri-a, và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần hột chuỗi Môi-khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi-khôi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức nầy. Kết quả thật lạ lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở lại với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mầng, tạ ơn Chúa và tri ân Đức Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Rô-ma, xin Đức Giáo Hoàng chuẩn nhận Hội Dòng Anh Em Thuyết Giáo của ngài, và đã được Đức Hô-nô-ri-út thứ 3 châu phê luật dòng vào ngày 22 tháng 10 năm 1216. Từ đó, dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới.
Thánh nhân qua đời tại Bô-li-nha, ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh Cha Ghê-gô-ri-ô thứ 9 đã tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.
Quyết tâm
Noi gương thánh Đa-minh, hằng ngày tôi siêng năng lần hột chuỗi Môi-khôi và cổ động nhiều người tham gia, để cậy nhờ Đức Mẹ cầu cùng Chúa, cho kẻ tội lỗi lầm lạc trở về cùng Chúa.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội thánh một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa-minh.
Xin nhận lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu, mà ban cho Hội thánh luôn tiến triển, nhờ công đức và lời giảng dạy của Ngài.
TỪ BỎ CÁI “TÔI”
Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và theo.” (Mt 16,24)
Suy niệm:Đa số chúng ta nghĩ rằng từ bỏ có vẻ như điều bất thường, là nhu nhược, lép vế hay thua trận. Thật ra, từ bỏ là điều rất bình thường và cần thiết. Từ bỏ là quy luật phát triển, trưởng thành của con người. Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Tội nhân biết hối lỗi, chừa bỏ tình trạng hiện tại, chắc chắn sẽ thành người tốt. Ki-tô hữu càng từ bỏ cái “tôi”, từ bỏ tội lỗi bao nhiêu, thì càng thánh thiện và giống Chúa bấy nhiêu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định điều kiện để làm môn đệ Ngài là từ bỏ mình mỗi ngày và vác thập giá theo Chúa, nghĩa là không sống theo ý riêng mình mà sống theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, dù phải hy sinh, thiệt thòi.
Mời Bạn:Chúa Giê-su từ bỏ địa vị Thiên Chúa, xuống thế làm người để con người trở thành con cái Chúa. Ngài từ bỏ sự cao sang để sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người, chết trên thập giá để cho con người được sống muôn đời. Mời bạn từ bỏ một tật xấu để gia đình mình được ấm êm; từ bỏ lời nói gian dối để tha nhân bớt khổ; từ bỏ thói nói xấu, vu oan để cộng đoàn được hiệp nhất, và từ bỏ một tội lỗi nào đó để nên thánh thiện.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi quyết tâm dành thời gian đọc hoặc lắng nghe 5 phút Lời Chúa, để có những giây phút sống với Chúa, để Chúa dạy dỗ mình.
Cầu nguyện:Lạy Chúa, xin ban cho con ơn can đảm, để con dám ra khỏi chính mình, khỏi cái tôi ích kỷ, và vui lòng vác thập giá mình theo Chúa mỗi ngày. Nhờ vậy, con sống an bình bên Chúa và an hòa với tha nhân. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là nguồn sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng con. Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng con trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc sống. Chúa mời gọi chúng con hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin Thánh Thể Chúa giúp chúng con can đảm bước theo chân Chúa với một lòng trung tín, sắt son.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã vui lòng đón nhận thập giá đắng cay để cứu chuộc chúng con. Chúa đã chấp nhận chết đi để ban lại cho chúng con sự sống đời đời. Xin dạy chúng con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác là biết mình đã làm theo ý Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu rằng: chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì khi cho đi là lúc chúng con được nhận lãnh để chúng con luôn biết sống thanh thoát và quảng đại cho tha nhân. Amen.
THỨ BẢY TUẦN 18 TN: Th. Tê-rê-xe Bê-nê-đi-ta Thánh Giá, nữ tu, tử đạo
Tin Mừng (Mt 17, 14-19)
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: “Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được”. Chúa Giêsu đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta”. Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: “Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được”.
ĐƠN GIẢN MÀ KHÔNG BIẾT
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài, nhưng các ông không chữa được.” (Mt 17,16)
Suy niệm: Cách Chúa Giê-su trừ quỷ và dạy cách trừ quỷ khiến cha của đứa bé và các môn đệ ngạc nhiên: phải ăn chay và cầu nguyện. Các ông loay hoay dựa vào kinh nghiệm cá nhân hoặc kinh nghiệm dân gian, nhưng không thành. Chỉ khi nghe Chúa mách bảo các ông mới ngộ ra rằng bấy lâu nay dù sống bên Chúa nhưng các ông lại thiếu niềm tin, thiếu đời sống cầu nguyện. Những căn bệnh do quỷ ám được Chúa Giê-su chữa lành minh chứng rằng Ngài là Đấng Cứu Thế đang đến giữa con người. Tin Mừng Ngài rao giảng chính là Lời và hành vi của Ngài có sức mạnh đánh tan mọi sai lầm ám ảnh xưa nay lôi kéo con người vào chỗ tin vơ thờ quấy. Đó là một Tin Mừng có sức giải phóng khỏi mọi hình thức sự dữ mà nhiều người chưa biết hay không muốn biết.
Mời Bạn: Hiện nay có những căn bệnh trầm kha mà thuốc men không có tác dụng: trầm cảm, ham mê sắc dục… Nếu những bệnh nhân này tìm đọc, suy niệm, tĩnh tâm, cầu nguyện bằng Tin Mừng, nhờ các nhà linh hướng hướng dẫn… họ mới mong được chữa khỏi.
Chia sẻ: Phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh: khi đời sống cá nhân và gia đình bạn đã được Phúc Âm hóa thì những bệnh tật do tính mê nết xấu, cám dỗ không còn cơ hội ảnh hưởng, tác hại.
Sống Lời Chúa: Hằng ngày tôi đọc, suy gẫm, cầu nguyện với Lời Chúa. Nhờ đó, lòng tin của tôi thêm kiên vững trước những cám dỗ của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa hằng ngày, vì Lời ấy là thuốc thiêng chữa trị tật bệnh tâm hồn, cũng như là nguồn mạch hoan lạc đời con. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là thần dược, là sức sống bổ dưỡng cho cuộc đời chúng con. Thánh Thể Chúa có thể chữa lành, xoa dịu thương đau cho cả hồn và xác chúng con. Xin Chúa hãy củng cố lòng tin còn yếu kém của chúng con. Xin dạy chúng con biết nương tựa vào quyền năng và tình thương của Chúa khi phải đối đầu với gian nan thử thách.
Nhưng Chúa ơi, có lẽ Chúa cũng thất vọng vì đức tin của chúng con chẳng bằng hạt cải. Chúng con còn hay ngã lòng trước nghi nan. Chúng con còn hay thất vọng trước những thất bại của cuộc đời. Nhiều lần chúng con buông xuôi cho dòng đời nổi trôi. Chúng con cậy vào sức mình hơn là tin tưởng trao vào tay Chúa những khó khăn thử thách. Chúng con đã không bám vào Chúa để vượt qua giông tố cuộc đời. Xin Chúa tha thứ cho những yếu kém của lòng tin nơi chúng con. Xin ban cho chúng con sức mạnh và ơn can đàm để chúng con luôn vững tin và trông cậy vào Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, là sức mạnh nâng đỡ những ai khổ sầu, xin thương nâng đỡ, chở che cuộc đời chúng con. Amen.
Tin Mừng (Mt 14, 22-36)
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong,
Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa” và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến”. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!”
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục, bổn mạng các cha sở(1786 – 1859)
Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786, tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798, Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799, Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Môi Côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm 1800, thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ, Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, ở họ đạo Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau, Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy, Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng, một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : – “Đây là một họ đạo nhỏ bé, nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ.”
Ngày 9 tháng 2 năm 1818, cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ đã coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần Ngài rơi nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện: – “Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con… Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.”
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo… Vui cười, Ngài nói: – “Tôi không hề mất áo choàng bao giờ.” Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa, thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa Nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động, Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn, cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng. Đêm thứ bảy, cha học và tập giảng cho hôm sau. Lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: – “Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.”
- “Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.”
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bệnh: – “Con đau đớn lắm không?”
Cậu bé trả lời: – “Hôm qua, con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại: – “Vậy con muốn được lành bệnh không?”
Cậu bé trả lời: – “Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.”
Chống lại tật làm việc xác, cha nói: – “Ngày Chúa Nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa Nhật và lấy của kẻ khác.”
Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ đạo có bảy quán rượu, cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi Tòa Giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái… đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói: – “Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.”
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này, khi qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện Thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói: – “Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào.” Cúi mặt, người du khách liền vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha nói: – “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…” Thế là cha đã biết nỗi lo âu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: – “Nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.”
Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: – “Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn.”
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859, cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện. – “Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.”
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tuyên hiển thánh. Và năm 1925, Ngài được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
CHẠM ĐẾN THẦY
Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi. (Mt 14,36)
Suy niệm: Mọi năng lượng được chuyển giao và tiếp nhận đều diễn ra qua một sự tiếp cận, tiếp xúc một cách nào đó với nguồn năng lượng. Năng lực cứu độ của Chúa Giê-su đã được thực hiện qua việc Ngài cho phép con người chạm đến Ngài và ở lại trong Ngài. “Dân chúng, tất cả những kẻ đau ốm nài xin Người chỉ cho họ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi”. Phê-rô đã thật sự “chạm” đến Thầy khi khẩn cầu: “Nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy,” và Thầy đã truyền cho ông sức mạnh siêu nhiên giúp ông vượt lên trên tự nhiên, bước đi trên mặt biển. Tuy nhiên, chỉ khi ở lại trong Ngài, trong sức mạnh cứu độ của Ngài, với một niềm tin mạnh mẽ, tín thác nơi Ngài, ta mới hoàn toàn được biến đổi.
Mời Bạn: “Chạm” đến Chúa để được chữa lành, ở lại trong Chúa để được thật sự thay đổi. Nơi nào trong tâm hồn bạn đang bị thương tổn, yếu đuối nào nơi bạn cần được Chúa chạm vào để chữa trị? Bạn phải tín thác vào Chúa trong những lãnh vực nào để sức mạnh và quyền năng của Ngài thể hiện ra trong cuộc đời của bạn?
Chia sẻ: Chia sẻ cảm nghiệm về một lần bạn được sức mạnh chữa lành của Ngài chạm đến và thay đổi đời bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ khẩn cầu Chúa đến cứu giúp, nâng đỡ mỗi khi gặp nguy hiểm, cám dỗ, thử thách.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con xin phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng và quyền năng cứu độ của Chúa. Xin giúp con đứng vững, không chao đảo giữa bao sóng gió cuộc đời, nhờ “chạm” đến Chúa và ở lại trong Chúa. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Sống đức tin trong thời đại hôm nay cũng khó khăn tựa như đi trên mặt biển. Có biết bao cám dỗ khiến chúng con xa lìa Chúa. Có biết bao những sóng gió khiến chúng con đánh mất niềm tin nơi Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ niềm tin còn yếu kém của chúng con để dầu đứng giữa những nghi nan của dòng đời, những sóng gió cuộc đời, chúng con vẫn luôn đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Xin giúp chúng con biết noi gương thánh Phê-rô mà thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con”.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn ở bên chúng con. Chúng con tin tưởng Chúa luôn bảo vệ chúng con. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng con. Vì chim trời, hoa huệ ngoài đồng chẳng là gì so với con người mà Chúa còn quan tâm chăm sóc. Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa dù gặp những gian nan. Xin cho chúng con biết nương tựa vào Chúa trong những lúc khó khăn và nguy hiểm của dòng đời.
Lạy Chúa, Chúa là sức mạnh và là thành luỹ bảo vệ đời chúng con. Xin cho chúng con biết tin tưởng và an vui nép mình bên Chúa. Amen.
THỨ BA TUẦN 18 TN: Cung hiến thánh đường Đức Ma-ri-a
Tin Mừng (Mt 15,1-2.10-14)
1 Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng : 2 “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa ?” 10 Sau đó, Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo : “Hãy nghe và hiểu cho rõ : 11 Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.”
12 Bấy giờ các môn đệ đến gần Đức Giê-su mà thưa rằng : “Thầy có biết không ? Những người Pha-ri-sêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy.” 13 Đức Giê-su đáp : “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố.”
Lễ cung hiến thánh đường Đức Bà cả
Thánh đường Đức Maria được xây cất vào thế kỷ thứ 4 dưới thời Đức Giáo Hoàng Libêriô. Truyện kể rằng chính Đức Mẹ đã chọn nơi này để người ta xây ngôi thánh đường tôn kính Mẹ. Mẹ đã thân hiện ra với đôi vợ chồng sở hữu mảnh đất cũng như với Đức Giáo Hoàng, bảo họ rằng khoảng đất trên ngọn đồi được bao phủ đầy tuyết kia chính là nơi Đức Mẹ đã chọn. Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng 5 tháng Tám, một thời điểm rất nóng trong năm ở Rôma, có một lớp tuyết bao phủ ngọn đồi Esquiline. Đôi vợ chồng đã xin dâng phần đất cũng như tiền bạc cần thiết để xây ngôi thánh đường như là món quà dâng kính Đức Mẹ.
Thoạt tiên, ngôi thánh đường này mang tên là Vương cung thánh đường Libêriô, theo tên của Đức Giáo Hoàng Libêriô. Nó cũng được gọi là thánh đường Đức Mẹ Xuống Tuyết để nhắc nhớ sự kiện Đức Mẹ đã chỉ cho biết mảnh đất dành cho việc xây cất. Sau đó, ngôi thánh đường được Đức Thánh Cha Sixtô III cung hiến cho Đức Maria sau khi Công đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ngôi thánh đường chính là một nhắc nhở tuyệt đẹp về tình yêu và lòng tôn kính mà Giáo hội dành tặng cho Mẹ Thiên Chúa. Danh xưng “cả” được thêm vào danh hiệu “thánh đường Đức Bà” bởi vì đây là ngôi thánh đường đầu tiên được xây cất ở Tây phương để tôn kính Đức Mẹ.
Bên trong thánh đường có máng cỏ Bêlem nơi Đức Maria đã đưa nôi Chúa Hài Nhi Giêsu. Điều này biểu lộ lòng tôn kính ngày Chúa giáng sinh, với hình Chúa Hài Nhi nhỏ bằng bạc đang nằm trong máng cỏ.
Ðền Ðức Bà Cả là một trong bốn thánh đường ở Rôma nổi tiếng là các thánh đường chính được xây cất để kính nhớ các trung tâm đầu tiên của Giáo Hội:
- Ðền thánh Gioan Latêranô: tượng trưng cho ngai toà Thánh Phêrô, Toà Rôma
- Ðền thánh Phaolô Ngoại Thành: toà Alexandria, nghe nói do Thánh Máccô đứng đầu
- Ðền thánh Phêrô: tòa Constantinople
- Ðền Ðức Bà Cả: tòa Antiôkia, là nơi người ta cho rằng Ðức Maria sống ở đây lâu nhất.
Ô UẾ VÀ TINH SẠCH
“Không phải cái vào miệng làm con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra…” (Mt 15,11)
Suy niệm: Ô uế là một ý niệm chìa khóa trong Thánh Kinh. Nó gắn liền với cảm thức về sự thánh thiện, tinh tuyền của Thiên Chúa. Người hay vật ô uế thì bất xứng với Thiên Chúa, và cần phải được thanh tẩy. Nhưng chẳng biết từ lúc nào, ý niệm này được hiểu một cách máy móc, hoàn toàn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài. Dần dần người ta chỉ lo làm hay tránh những điều hoàn toàn bên ngoài, để khỏi ô uế, mà không hề quan tâm đến sự trong sạch trong tâm hồn mình. Ý niệm về ô uế hay tinh sạch cũng dần co lại nơi chính nó, và đặc tính tương quan (với Thiên Chúa) không còn được thấy rõ nữa.
Chính trong bối cảnh này mà Đức Giê-su đã bày tỏ quan điểm của Ngài. Ngài chuyển tiêu điểm của ô uế hay tinh sạch vào bên trong. Và Ngài giới thiệu một vị Thiên Chúa thấu suốt tâm can người ta và quan tâm trước hết đến những gì ở trong đáy lòng ấy: “Không phải cái và miệng làm con người ra ô uế, nhưng chính là cái từ miệng xuất ra”!
Mời Bạn: Chúng ta quan tâm đến sự sạch sẽ của thực phẩm, y phục, nhà cửa, môi trường. Chúng ta chống lại mọi hành động gây ô nhiễm nguồn nước, bầu không khí, v.v… Nhưng còn tư tưởng, tâm hồn của chúng ta thì sao? Ta đi xưng tội để được Chúa tha thứ; nhưng bí tích Sám hối này có được ta cử hành thực sự từ trong tâm hồn, chứ không qua loa, máy móc không?
Sống Lời Chúa: Thành tâm đặt mình trước mặt Chúa và kiểm điểm cuộc sống của mình.
Cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy…”.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là tấm bánh dưỡng nuôi cuộc đời chúng con. Đây là ân phúc vượt lên mọi điều chúng con mong ước. Chúng con chỉ cần của ăn mau hư nát, nhưng Chúa lại cho chúng con sự sống đời đời là chính Thánh Thể Chúa. Chúng con chỉ cầu Chúa ban cho chúng con lương thực hằng ngày, thế mà Chúa lại cho chính Chúa làm gia nghiệp cuộc đời chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con cũng trở thành tấm bánh để hoà tan trong anh em. Xin giúp chúng con luôn trở thành người hữu ích cho cộng đoàn bằng đời sống yêu thương và phục vụ vì lợi ích của tha nhân.
Lạy Chúa, ngày nay người ta không chỉ đói cơm ăn, thiếu áo mặc mà còn cần sự cảm thông và chia sẻ, cần tình thương mến và rất cần những cử chỉ quan tâm chăm sóc của tha nhân. Nhưng Chúa ơi! Sao chúng con quá ích kỷ với nhau. Chúng con thường có thái độ bàng quan, dửng dưng trước những bất hạnh của tha nhân. Chúng con cũng còn thiếu cả trách nhiệm với gia đình, đôi khi vì lười biếng mà chúng con đã chồng chất gánh nặng lên vai cha mẹ và anh em. Chúng con thiếu mau mắn chia sẽ trách nhiệm với gia đình. Chúng con ngại đưa tay giúp đỡ thi ân. Chúng con chần chờ khi phải đến viếng thăm nhau. Chúng con thường tìm vui thú cho bản thân hơn là lo lắng phục vụ cho lợi ích cộng đoàn. Chúng con đã không dùng tài năng Chúa ban để phục vu cộng đoàn nhưng chỉ lo thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Xin Chúa tha thứ cho những thiết sót của chúng con.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, xin cho cuộc đời chúng con cũng là tấm bánh làm vui lòng mọi người qua sự chia sẻ trong yêu thương và phục vụ của chúng con. Amen.
THỨ TƯ TUẦN 18 TN: Chúa Hiển Dung
Tin Mừng (Mt 17, 1-9)
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây ông Môsê và Êlia hiện ra và đàm đạo với Người.
Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Lễ Chúa Hiển Dung
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều đề cập đến biến cố Hiển Dung (Mátthêu 17,1-8; Máccô 9,2-9; Luca 9,28-36). Với một sự tương đồng đáng chú ý, cả ba đều kể lại biến cố này sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thế và sau lần đầu tiên Chúa Giêsu nói về sự thống khổ và cái chết của Người. Sự hăng hái của Phêrô trong việc dựng lều nơi hiển dung đưa ra giả sử rằng, biến cố đó xảy ra trong dịp Lễ Lều kéo dài một tuần lễ trong mùa thu.
Tabor là ngọn núi cao nhất miền Galilêa. Từ trên đỉnh ta có thể nhìn thấy một khung cảnh bao quát. Chính tại đây, Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt ba môn đệ là những người sẽ được chứng kiến cơn hấp hối của Ngài sau này trong vườn cây Dầu.
Mặc dù cả ba văn bản đều rất giống nhau, theo các học giả Thánh Kinh, thật khó để diễn lại cảm nghiệm của các tông đồ, vì các Phúc Âm dựa rất nhiều vào Cựu Ước trong đoạn diễn tả cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa ở núi Sinai và những điều tiên tri về Con Người. Chắc chắn là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã thoáng được nhìn thấy thiên tính của Chúa Giêsu, nhưng ấn tượng ấy đủ mạnh để tạo nên sự sợ hãi in sâu trong tâm hồn họ.
Phúc Âm đã kể lại: “Quần áo Ngài trở nên rực sáng và trắng đẹp đến nỗi không một thợ giặt nào ở thế gian làm được như vậy. Rồi Elia và Môsê hiện ra nói chuyện với Ngài. Bấy giờ Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, ở đây tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều: Thầy một, Elia một và Môsê một”. Phêrô không rõ mình nói gì vì cả ba đều kinh sợ. Kế đến có một đám mây che phủ các Ðấng ấy và nghe thấy tiếng từ đám mây phán ra: “Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.
Một cảm nghiệm như vậy không thể nào diễn tả được, do đó các ngài dùng cách diễn đạt thông thường trong kinh sách để diễn tả. Và tất nhiên, Chúa Giêsu đã cảnh cáo cho họ biết, sự vinh hiển và sự thống khổ của Người liên hệ với nhau một cách chặt chẽ – đó là chủ đề mà Gioan lập đi lập lại trong Phúc Âm của ngài.
Sự biến hình, một lần nữa lại minh xác với chúng ta rằng: Ðức Kitô chính là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, đồng thời cho chúng ta thấy trước được hình ảnh sự sống lại vinh hiển của Ðấng Cứu Thế, và sự sống lại của những người công chính trong ngày sau hết.
Truyền thống coi núi Tabor là nơi hiển dung. Ðầu tiên, trong thế kỷ thứ tư một nhà thờ được dựng nên ở nơi đây để cung hiến cho biến cố này vào ngày 6 tháng Tám. Một ngày lễ để tôn kính sự Hiển Dung được Giáo Hội Ðông Phương cử hành mừng bắt đầu từ khoảng thời gian đó. Sự mừng kính của một vài Giáo Hội Tây Phương bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám.
Vào ngày 22 tháng Bảy năm 1456, Thập Tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Belgrade. Tin tức về cuộc chiến thắng được đưa về Rôma vào ngày 6 tháng Tám, và vào năm sau, Ðức Thánh Cha Callistus III đã đưa ngày lễ này vào niên lịch phụng vụ của Rôma.
CHÂN DUNG ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA
“Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mt 17,9)
Suy niệm: Thầy Giê-su không muốn ba môn đệ thân tín mô tả chân dung sáng chói của mình trong biến cố “hiển dung,” vì sợ người ta hiểu sai về Đấng Cứu Thế. Ngài muốn các ông và cả chúng ta nữa diễn tả hình ảnh đúng về Ngài: một Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh trên thập giá. Niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh vinh hiển luôn bao hàm rằng Đấng Ki-tô ấy chịu treo đau khổ trên thập giá. Thập giá là phương thế Thiên Chúa Cha đã hoạch định cho Đức Ki-tô cứu độ nhân loại, và đó cũng là con đường dẫn đến Ngài đến phục sinh vinh quang. Khi nắm vững sự thật này, ta sẽ vui mừng đón nhận thập giá của Đức Giê-su, không còn trông mong một Đấng Thiên Sai trần tục theo kiểu quan niệm của người Do Thái xưa.
Mời Bạn: Bạn đang mang trong mình hình ảnh của Đấng Phục Sinh, hình ảnh ấy phải được tỏ rạng trong cuộc sống hằng ngày của bạn qua thái độ tin tưởng, phó thác vào Chúa trước những thử thách, lạc quan trong mọi biến cố cuộc sống, âm thầm làm chứng cho những giá trị Nước Trời… vì tin rằng sự sống đời đời của Đấng Phục Sinh đã nở hoa ngay trong cuộc sống hôm nay.
Sống Lời Chúa: Nhờ xác tín giá trị của thập giá Đức Ki-tô, tôi sẽ vui lòng đón nhận những hy sinh, thiệt thòi khi sống những đòi hỏi của người môn đệ Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa ban cho con sự sống mới, con xin cảm tạ Chúa. Xin cho con biết kết hiệp với Chúa trong mọi sự, để con trở nên hình ảnh sinh động của Đấng Phục Sinh trong con. Amen.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!
Chúng con yêu mến và ngợi khen Chúa. Vì Chúa đã quá yêu thương chúng con. Dù rằng chúng con chỉ là một tạo vật nhỏ bé và đầy lỗi lẫm. Chúa vẫn chăm sóc cuộc đời chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa hoà nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa chấp nhận tan biến mình, để chúng con được sống sức sống của Chúa. Xin cho chúng con biết sống sao cho xứng với tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Nhưng Chúa ơi! ở đời sự giàu sang, danh vọng và khoái lạc trần thế là những điều hấp dẫn chúng con, trói buộc chúng con, làm cho chúng con đui mù không nhìn thấy những giá trị vĩnh cửu ở trên trời. Chúng con đã hành động theo những đam mê mù quáng. Chúng con đã lao vào thói hư tật xấu vì chiều theo tính xác thịt. Xin Chúa giải thoát và tháo gỡ chúng con khỏi mọi sự u mê của trần thế, để chúng con nhìn thấy những sự phong phú và vĩnh cửu ở trên trời, để chúng con luôn nỗ lực tìm kiếm Chúa và biết khôn ngoan chọn Chúa là nguồn hạnh phúc của cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, giữa những thói đời đầy đam mê thấp hèn, xin giúp chúng con đứng vững trước những cám dỗ tội lỗi và trung tín trong ơn nghĩa với Chúa luôn. Amen.
THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN: Th. Xít-tô II, giáo hoàng và các bạn tử đạo
Tin Mừng (Mt 16, 13-23)
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
THÁNH XÍT-TÔ 2 GIÁO HOÀNG VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
Gương Thánh nhân
Thánh Xít-tô lên ngôi Giáo Hoàng năm 257, giữa lúc Hội thánh đang gặp cơn bắt bớ dữ dằn, thời hoàng đế Va-lê-ri-a-nô, nên đã bị giết chết vì đạo cùng với một số các phó tế của ngài, như lời thánh Cýp-ri-a-nô thuật lại sau đây:
“Sự thật là hoàng đế đã gởi lên Thượng viện một sắc lệnh truyền xử tử tức khắc các Giám mục, Linh mục và phó tế; còn đối với nghị viên, công chức cao cấp và kỵ binh Rô-ma thì phải bốc lột hết chức tước, tịch thu tài sản và nếu mất hết tài sản rồi mà họ vẫn cố chấp giữ đạo thì phải trảm quyết liền; phần các bậc mệnh phụ thì tước đoạt tài sản xong sẽ cho họ đi đày; mọi công chức của triều đình, trước đây xưng mình là tín hữu hay bây giờ vẫn còn xưng như thế, thì cũng phải tịch thu tài sản, rồi lập danh sách và trói lại, điệu đến các nơi hoàng triều cương thổ.
“Hoàng đế Va-lê-ri-a-nô còn cho kèm theo sắc lệnh trên, một phó bản bức thư ông gởi đến cho các quan Tổng đốc về chúng tôi. Ngày nay chúng tôi cũng chờ bức thư đó tới, vì chúng tôi đã nhất định đứng vững trong đức tin, sẵn sàng chịu đau khổ và trông đợi lòng Chúa thương xót ban cho được triều thiên sự sống đời đời; quý huynh cũng nên biết rằng Đức Xít-tô đã bị xử nơi một nghĩa địa ngày 6 tháng 8 cùng với 4 phó tế. Hằng ngày ở Rô-ma, quan vẫn tiến hành các cuộc bách hại như vậy: hễ thấy điệu ai tới là họ xử tử liền, và tịch thu tài sản để cho vào công khố”.
Thánh nhân bị chém đầu cùng với 4 vị phó tế trong số 7 vị phó tế của ngài, đang lúc ngài dâng Thánh lễ trong một hang toại đạo tại nghĩa trang. Hôm đó là ngày 6 tháng 8 năm 258, trong lúc thánh nhân dâng lễ có đông giáo hữu tham dự, cảnh sát Rô-ma đột ngột xông vào. Ngài tự hiến mình cho họ chém đầu, để giáo dân tẩu thoát. Ngài hy sinh chịu chết để cho đoàn chiên khỏi bị bắt bớ giam cầm, do đó mà mọi người đều tôn kính mến yêu ngài hết lòng. Ngài nêu gương can đảm làm chứng cho Chúa, coi cái chết như cỏ rác, trọng phần phúc thiên đàng hơn cả mạng sống và chức tước danh vọng.
Quyết tâm
Noi gương thánh Giáo Hoàng Xít-tô thứ 2; quý trọng phần phúc thiên đàng hơn tất cả mọi sự ở đời, và sẵn sàng hy sinh chịu khó hết sức để được ơn phước đó.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban thánh Xít-tô và các bạn thí mạng sống mình, để trọn niềm trung thành với Lời Chúa và làm chứng cho Đức Giê-su.
Xin dùng quyền năng của Thánh Thần giúp chúng con biết sẵn sàng đón nhận chân lý và can đảm tuyên xưng đức tin.
KHẲNG ĐỊNH LỜI TUYÊN XƯNG
“Người ta nói Con Người là ai? ”… “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” (Mt 16,13.15)
Suy niệm: Thành Xê-da-rê Phi-líp-phê ở thượng nguồn sông Gio-đan, dưới chân núi Khe-môn, cách hồ Ga-li-lê 50 cây số. Đây là miền đất ngoại giáo, thờ nhiều vị thần, kể cả hoàng đế Rô-ma; ngày nay vẫn còn dấu tích đền thờ các vị thần, nói nôm na, nơi đây là “siêu thị tôn giáo.” Chính trong bối cảnh này, Đức Giêsu làm một cuộc “thăm dò dư luận” với các môn đệ: “Người ta nóiCon Người là ai?” – “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Cuộc thăm dò đi từ việc tường thuật lời “người ta nói” sang việc khẳng định chính kiến “còn anh em, anh em bảo”. Câu trả lời của các môn đệ không còn chung chung nữa, nhưng phải là một sự xác định mang tính cá vị trong tương quan với Đức Giêsu và mặc khải của Chúa Cha (c. 17), nghĩa là tin vào Thiên Chúa duy nhất và vào Đấng Cứu Thế duy nhất là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Mời Bạn: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”Trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu ở nhà thờ hay trong giờ học giáo lý thì thật dễ dàng, nhưng không dễ trong cuộc sống, phải không bạn? Nhất là khi quanh bạn đang có nhiều thứ “thần” khác mà lắm khi được cho là quan trọng hơn cả Chúa: tiền bạc, danh vọng, những đam mê bất chính, sự ích kỷ… Ngày hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi bạn câu hỏi quan trọng đó, bạn sẽ trả lời Ngài thế nào?
Sống Lời Chúa: Chậm rãi lặp đi lặp lại lời tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con tuyên xưng Chúa là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Xin giúp chúng con sống niềm tin này. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Cuộc đời luôn có những sóng gió nghi nan. Dòng đời luôn đong đầy những gian truân vất vả. Thế nhưng, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa trợ giúp trong những lúc khó khăn. Chúng con có Chúa đồng hành và sẵn lòng cất nhẹ những gánh nặng trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Thánh Thể để được ơn nâng đỡ phần hồn và phần xác. Xin cho chúng con biết trao vào tay Chúa những gánh nặng trong cuộc đời, những thử thách trong hiện tại và lo lắng cho tương lại.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, thánh Phê-rô hôm nay đã tuyên xưng Chúa là Đấng hằng sống, dù rằng ngày mai ông lại chối Chúa đến ba lần. Chúa biết Phê-rô sẽ gục ngã trước nghi nan dù rằng lòng ông không muốn thế. Chúa nhìn thấu suốt tâm can. Chúa biết tấm lòng chân thật của thánh nhân. Xin Chúa cũng nhìn đến lòng thành của chúng con. Chúng con vẫn tuyên xưng mình là người ky-tô giáo nhưng lại không sống điều chúng con tin. Chúa bảo chúng con yêu người nhưng chúng con vẫn còn ghét bỏ nhau. Chúa bảo chúng sống công bình nhưng chúng con vẫn để cho những danh lợi thú làm chủ con người chúng con. Chúa muốn chúng con vác thập già mà theo Chúa nhưng chúng con lại sợ nghi nan.
Lạy Chúa, xin nâng đỡ đức tin còn yếu kém của chúng con để dù giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống, chúng con luôn kiên vững và an vui trong bổn phận của mình. Amen.
THỨ SÁU TUẦN 18 TN: Th. Đa-minh, linh mục
Tin Mừng (Mt 16, 24-28)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? “Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người”.
THÁNH ĐA-MINH, Linh Mục
Gương Thánh nhân
Thánh Đa-minh sinh tại Cát-tin, nước Tây-ban-nha, năm 1170.
Ngay lúc nhỏ, thánh nhân đã mến mộ học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để đọc kinh cầu nguyện, và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:
- Tôi không còn tiền, nhưng nầy chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.
Người nầy không thể chấp nhận đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gởi đến thụ giáo với một Linh mục ở Gu-mi-en. Năm 14 tuổi, ngài gia nhập đại chủng viện tại Pa-len-ci-a. Sau khi hoàn tất việc học ngài được Đức Cha Đi-gê-ô truyền chức Linh mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám mục đặt ngài làm Kinh sĩ ở Ốt-ma.
Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được dẫn theo. Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn tai hại do bè rối An-bi-ro (Albigeois) gây ra cho Hội thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa; muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy không thể một mình đương đầu nổi với sức bành trướng của họ ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác, đó là những người sau nầy trở nên tu sĩ hội dòng ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của Ngài kể lại:
“Đa-minh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và của ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của ngài.
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin mừng, cả trong lời nói và hành động…
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt nầy, là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta; ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nếu tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Giảng Thuyết”.
Suốt 6 năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Ma-ri-a, và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần hột chuỗi Môi-khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi-khôi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức nầy. Kết quả thật lạ lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở lại với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mầng, tạ ơn Chúa và tri ân Đức Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Rô-ma, xin Đức Giáo Hoàng chuẩn nhận Hội Dòng Anh Em Thuyết Giáo của ngài, và đã được Đức Hô-nô-ri-út thứ 3 châu phê luật dòng vào ngày 22 tháng 10 năm 1216. Từ đó, dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới.
Thánh nhân qua đời tại Bô-li-nha, ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh Cha Ghê-gô-ri-ô thứ 9 đã tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.
Quyết tâm
Noi gương thánh Đa-minh, hằng ngày tôi siêng năng lần hột chuỗi Môi-khôi và cổ động nhiều người tham gia, để cậy nhờ Đức Mẹ cầu cùng Chúa, cho kẻ tội lỗi lầm lạc trở về cùng Chúa.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội thánh một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa-minh.
Xin nhận lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu, mà ban cho Hội thánh luôn tiến triển, nhờ công đức và lời giảng dạy của Ngài.
TỪ BỎ CÁI “TÔI”
Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và theo.” (Mt 16,24)
Suy niệm:Đa số chúng ta nghĩ rằng từ bỏ có vẻ như điều bất thường, là nhu nhược, lép vế hay thua trận. Thật ra, từ bỏ là điều rất bình thường và cần thiết. Từ bỏ là quy luật phát triển, trưởng thành của con người. Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Tội nhân biết hối lỗi, chừa bỏ tình trạng hiện tại, chắc chắn sẽ thành người tốt. Ki-tô hữu càng từ bỏ cái “tôi”, từ bỏ tội lỗi bao nhiêu, thì càng thánh thiện và giống Chúa bấy nhiêu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định điều kiện để làm môn đệ Ngài là từ bỏ mình mỗi ngày và vác thập giá theo Chúa, nghĩa là không sống theo ý riêng mình mà sống theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, dù phải hy sinh, thiệt thòi.
Mời Bạn:Chúa Giê-su từ bỏ địa vị Thiên Chúa, xuống thế làm người để con người trở thành con cái Chúa. Ngài từ bỏ sự cao sang để sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người, chết trên thập giá để cho con người được sống muôn đời. Mời bạn từ bỏ một tật xấu để gia đình mình được ấm êm; từ bỏ lời nói gian dối để tha nhân bớt khổ; từ bỏ thói nói xấu, vu oan để cộng đoàn được hiệp nhất, và từ bỏ một tội lỗi nào đó để nên thánh thiện.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi quyết tâm dành thời gian đọc hoặc lắng nghe 5 phút Lời Chúa, để có những giây phút sống với Chúa, để Chúa dạy dỗ mình.
Cầu nguyện:Lạy Chúa, xin ban cho con ơn can đảm, để con dám ra khỏi chính mình, khỏi cái tôi ích kỷ, và vui lòng vác thập giá mình theo Chúa mỗi ngày. Nhờ vậy, con sống an bình bên Chúa và an hòa với tha nhân. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là nguồn sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng con. Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng con trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc sống. Chúa mời gọi chúng con hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin Thánh Thể Chúa giúp chúng con can đảm bước theo chân Chúa với một lòng trung tín, sắt son.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã vui lòng đón nhận thập giá đắng cay để cứu chuộc chúng con. Chúa đã chấp nhận chết đi để ban lại cho chúng con sự sống đời đời. Xin dạy chúng con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác là biết mình đã làm theo ý Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu rằng: chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì khi cho đi là lúc chúng con được nhận lãnh để chúng con luôn biết sống thanh thoát và quảng đại cho tha nhân. Amen.
THỨ BẢY TUẦN 18 TN: Th. Tê-rê-xe Bê-nê-đi-ta Thánh Giá, nữ tu, tử đạo
Tin Mừng (Mt 17, 14-19)
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: “Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được”. Chúa Giêsu đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta”. Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: “Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được”.
ĐƠN GIẢN MÀ KHÔNG BIẾT
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài, nhưng các ông không chữa được.” (Mt 17,16)
Suy niệm: Cách Chúa Giê-su trừ quỷ và dạy cách trừ quỷ khiến cha của đứa bé và các môn đệ ngạc nhiên: phải ăn chay và cầu nguyện. Các ông loay hoay dựa vào kinh nghiệm cá nhân hoặc kinh nghiệm dân gian, nhưng không thành. Chỉ khi nghe Chúa mách bảo các ông mới ngộ ra rằng bấy lâu nay dù sống bên Chúa nhưng các ông lại thiếu niềm tin, thiếu đời sống cầu nguyện. Những căn bệnh do quỷ ám được Chúa Giê-su chữa lành minh chứng rằng Ngài là Đấng Cứu Thế đang đến giữa con người. Tin Mừng Ngài rao giảng chính là Lời và hành vi của Ngài có sức mạnh đánh tan mọi sai lầm ám ảnh xưa nay lôi kéo con người vào chỗ tin vơ thờ quấy. Đó là một Tin Mừng có sức giải phóng khỏi mọi hình thức sự dữ mà nhiều người chưa biết hay không muốn biết.
Mời Bạn: Hiện nay có những căn bệnh trầm kha mà thuốc men không có tác dụng: trầm cảm, ham mê sắc dục… Nếu những bệnh nhân này tìm đọc, suy niệm, tĩnh tâm, cầu nguyện bằng Tin Mừng, nhờ các nhà linh hướng hướng dẫn… họ mới mong được chữa khỏi.
Chia sẻ: Phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh: khi đời sống cá nhân và gia đình bạn đã được Phúc Âm hóa thì những bệnh tật do tính mê nết xấu, cám dỗ không còn cơ hội ảnh hưởng, tác hại.
Sống Lời Chúa: Hằng ngày tôi đọc, suy gẫm, cầu nguyện với Lời Chúa. Nhờ đó, lòng tin của tôi thêm kiên vững trước những cám dỗ của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa hằng ngày, vì Lời ấy là thuốc thiêng chữa trị tật bệnh tâm hồn, cũng như là nguồn mạch hoan lạc đời con. Amen.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là thần dược, là sức sống bổ dưỡng cho cuộc đời chúng con. Thánh Thể Chúa có thể chữa lành, xoa dịu thương đau cho cả hồn và xác chúng con. Xin Chúa hãy củng cố lòng tin còn yếu kém của chúng con. Xin dạy chúng con biết nương tựa vào quyền năng và tình thương của Chúa khi phải đối đầu với gian nan thử thách.
Nhưng Chúa ơi, có lẽ Chúa cũng thất vọng vì đức tin của chúng con chẳng bằng hạt cải. Chúng con còn hay ngã lòng trước nghi nan. Chúng con còn hay thất vọng trước những thất bại của cuộc đời. Nhiều lần chúng con buông xuôi cho dòng đời nổi trôi. Chúng con cậy vào sức mình hơn là tin tưởng trao vào tay Chúa những khó khăn thử thách. Chúng con đã không bám vào Chúa để vượt qua giông tố cuộc đời. Xin Chúa tha thứ cho những yếu kém của lòng tin nơi chúng con. Xin ban cho chúng con sức mạnh và ơn can đàm để chúng con luôn vững tin và trông cậy vào Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, là sức mạnh nâng đỡ những ai khổ sầu, xin thương nâng đỡ, chở che cuộc đời chúng con. Amen.